Sử dụng Aspirin liều thấp trong phòng ngừa tiền sản giật và tỷ lệ mắc bệnh và tử vong liên quan
DS. Trần Thị Thu Hiền
Khoa Dược (Dịch)
Aspirin liều thấp được sử dụng phổ biến trong thai kỳ để phòng ngừa hoặc trì hoãn sự khởi phát của tiền sản giật (TSG). Theo khuyến cáo trước đây của Hiệp hội Sản phụ khoa Hoa Kỳ (ACOG), Hiệp hội Y học Bà mẹ -Thai nhi (SMFM) và Cơ quan Y tế dự phòng Hoa Kỳ (USPSTF), điều trị dự phòng ở phụ nữ mang thai có nguy cơ cao TSG bằng aspirin liều thấp (81 mg/ngày) từ 12 tuần tuổi thai và xem xét điều trị dự phòng ở những đối tượng có nhiều hơn một yếu tố nguy cơ trung bình. Cũng theo ACOG và SMFM, thời gian bắt đầu dùng aspirin liều thấp khoảng từ tuần thứ 12 đến tuần thứ 28 tuổi thai (tốt nhất là trước tuần thứ 16) và duy trì mỗi ngày cho đến khi sinh.
Khuyến cáo của USPSTF 2021
Vào tháng 9 năm 2021, USPSTF đã cập nhật các khuyến cáo về việc sử dụng aspirin để phòng ngừa TSG, cũng như tỷ lệ mắc bệnh và tử vong liên quan. Các khuyến cáo chủ yếu dựa trên đánh giá các yếu tố nguy cơ từ tiền sử bệnh của người bệnh. Trong đó, khuyến cáo chính của USPSTF hầu như không thay đổi: sử dụng aspirin liều thấp (81 mg/ngày) sau 12 tuần tuổi thai đối với những người có nguy cơ cao TSG (Cấp độ B). Tuy nhiên, USPSTF đã cập nhật hướng dẫn về các yếu tố nguy cơ trung bình. Cụ thể, USPSTF hiện khuyến cáo dùng aspirin liều thấp cho những người có nhiều hơn một yếu tố nguy cơ trung bình. Đồng thời, USPSTF đã thêm một yếu tố nguy cơ trung bình “Thụ tinh trong ống nghiệm” và sửa đổi yếu tố nguy cơ “Đặc điểm xã hội học” trước đó thành hai yếu tố riêng biệt, bao gồm “Chủng tộc da đen” (thuộc yếu tố xã hội) và “thu nhập thấp”. USPSTF lưu ý rằng, yếu tố “Chủng tộc da đen” và “thu nhập thấp” có liên quan đến gia tăng nguy cơ do sự bất bình đẳng về môi trường, xã hội và lịch sử hình thành nên sức khỏe, khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe và phân bổ nguồn lực không đồng đều, chứ không phải xu hướng sinh học; aspirin liều thấp có thể được xem xét khi không có thêm bất kỳ yếu tố nguy cơ trung bình nào nếu bệnh nhân có một trong các yếu tố nguy cơ này.
Cập nhật khuyến cáo của ACOG và SMFM
Theo hướng dẫn cập nhật của USPSTF và các bằng chứng hỗ trợ, ACOG và SMFM sửa đổi khuyến cáo về điều trị dự phòng bằng aspirin liều thấp trong phòng ngừa TSG như sau:
- Những phụ nữ mang thai có nguy cơ cao TSG với một hoặc nhiều yếu tố nguy cơ sau:
- Tiền sử TSG, đặc biệt khi có kết cục thai kỳ bất lợi
- Đa thai
- Tăng huyết áp mãn tính
- Bệnh tiểu đường tuýp 1 hoặc 2 trước khi mang thai
- Bệnh thận
- Bệnh tự miễn (lupus ban đỏ hệ thống, hội chứng kháng phospholipid)
- Sự kết hợp của nhiều yếu tố nguy cơ trung bình
Những yếu tố nguy cơ này luôn có mối liên quan đến nguy cơ TSG nặng. Tỷ lệ mắc TSG có thể ít nhất là 8% ở những người mang thai có một trong những yếu tố nguy cơ cao.
- Những phụ nữ mang thai có nhiều hơn một trong số các yếu tố nguy cơ trung bình như sau:
- Con so
- Béo phì (BMI > 30)
- Tiền sử gia đình bị TSG (mẹ hoặc chị, em gái)
- Chủng tộc da đen (như là đại diện cho sự phân biệt chủng tộc)
- Thu nhập thấp
- Tuổi từ 35 trở lên
- Tiền sử bệnh (cân nặng khi sinh thấp hoặc nhỏ so với tuổi thai, kết cục thai kỳ bất lợi trước đó, khoảng cách mang thai >10 năm)
- Thụ tinh trong ống nghiệm
Những yếu tố này có liên quan độc lập với nguy cơ TSG trung bình, một số nhất quán hơn những yếu tố khác. Sự kết hợp của nhiều yếu tố nguy cơ trung bình có thể mang lại nguy cơ TSG cao hơn.
Ngoài ra, aspirin liều thấp còn có thể được xem xét sử dụng khi bệnh nhân có một hoặc nhiều yếu tố nguy cơ trung bình như: Chủng tộc da đen hoặc thu nhập thấp. Nguy cơ tiềm ẩn đối với sức khỏe chủ yếu là sự phân biệt chủng tộc, chứ không phải do chủng tộc. Tuy nhiên, vẫn chưa có công cụ đầy đủ để đo lường sự ảnh hưởng của phân biệt chủng tộc. Trong tài liệu này, chủng tộc da đen đóng vai trò đại diện cho sự phân biệt chủng tộc tiềm ẩn. Những yếu tố này có liên quan đến gia tăng nguy cơ do sự bất bình đẳng về môi trường, xã hội, cấu trúc và lịch sử hình thành nên sức khỏe, khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe và sự phân bổ tài nguyên không đồng đều, chứ không phải do xu hướng sinh học.
Khuyến cáo nên bắt đầu dùng aspirin liều thấp từ tuần thứ 12 đến tuần thứ 28 tuổi thai (tốt nhất là trước tuần thứ 16) và duy trì mỗi ngày cho đến khi sinh.
Cân nhắc thực hiện
Có bằng chứng hỗ trợ cho việc sử dụng phương pháp tiếp cận dựa trên đánh giá yếu tố nguy cơ để xác định xem có nên sử dụng aspirin liều thấp cho người mang thai hay không. Do đó, bác sĩ sản phụ khoa và các nhân viên y tế khác cần thực hiện theo các quy trình sàng lọc đầy đủ để xác định mức độ nguy cơ phù hợp. Tuy nhiên, tại một số cơ sở y tế, đa số bệnh nhân có nguy cơ TSG cao hoặc trung bình, do đó đều thuộc nhóm đối tượng cần được điều trị dự phòng bằng aspirin liều thấp. Trong những trường hợp này, việc sử dụng aspirin liều thấp cho tất cả bệnh nhân có thể hợp lý về mặt y tế.
Nội dung thực hành này đóng vai trò là bản cập nhật tạm thời cho tất cả các hướng dẫn và tài liệu của ACOG và SMFM liên quan về điều trị dự phòng bằng aspirin liều thấp để phòng ngừa TSG cũng như tỷ lệ mắc bệnh và tử vong liên quan.
Tài liệu tham khảo
Low-Dose Aspirin Use for the Prevention of Preeclampsia and Related Morbidity and Mortality. ACOG. 2022. https://www.acog.org/clinical/clinical-guidance/practice-advisory/articles/2021/12/low-dose-aspirin-use-for-the-prevention-of-preeclampsia-and-related-morbidity-and-mortality.
Trong giai đoạn năm 2018-2021, Mạng lưới An toàn Chăm sóc Sức khỏe Quốc gia (NHSN) đã báo cáo rằng 0,4% (n = 1.951) các ca nhiễm trùng mắc phải tại bệnh viện (HAI) ở Hoa Kỳ nguyên nhân do Acinetobacter spp. gây ra. Trong số này có 28-45% không nhạy cảm với kháng sinh carbapenem (tức là trung gian hoặc đề kháng).
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCT), BLING III cung cấp bằng chứng việc sử dụng truyền liên tục (CI) so với truyền ngắt quãng piperacillin/tazobactam và meropenem trên bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Điều này được củng cố bởi một đánh giá tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp (SRMA) của 18 RCT về CI hoặc truyền kéo dài (EI) (thời gian từ 3–4 giờ) các kháng sinh beta-lactam. Thách thức hiện nay là chuyển đổi CI như một tiêu chuẩn chăm sóc cho bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Các cân nhắc chính bao gồm các vấn đề sau:
Các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Alabama tại Birmingham, đã tiến hành phân tích dữ liệu thứ cấp trên đối tượng phụ nữ tăng huyết áp mạn tính trong thai kỳ, so sánh với phương pháp điều trị chính. Tăng huyết áp mạn tính nhẹ trong nghiên cứu được định nghĩa là huyết áp 140-159/90-104 mmHg trước 20 tuần của thai kỳ.
Nhiễm trùng huyết – sepsis - vẫn là một trong những nguyên nhân gây tử vong lớn nhất trên thế giới, Tổ chức Y tế Thế giới ước tính 11 triệu người tử vong mỗi năm do tình trạng này. Các yếu tố chính của việc quản lý sepsis là chẩn đoán sớm, liệu pháp kháng sinh kinh nghiệm sớm và phù hợp, với biện pháp kiểm soát nguồn gây bệnh thích hợp và bảo tồn chức năng các cơ quan.
Sự ra đời của vắc-xin giúp chúng ta chủ động phòng chống các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Tổ chức y tế thế giới ước tính chương trình tiêm chủng hiện nay giúp ngăn ngừa 3,5-5 triệu ca tử vong mỗi năm do các bệnh như bạch hầu, uốn ván, ho gà, cúm và sởi [2].
Phòng ngừa suy nhược, mệt mỏi, đau nhức:
Hoạt động mỗi ngày đi bộ ngắn, tập các bài tập nhẹ nhàng. Giữ tinh thần ổn định
Chế độ ăn hợp lý trao đổi thêm với bác sĩ về dinh dưỡng bổ sung (thực phẩm giàu protein như thịt, cá, phô mai, sữa chua...). Uống nhiều nước, trừ khi có hướng dẫn khác.
Chườm khăn lạnh nếu có nhức mỏi, đau cơ.