Sử dụng Aspirin trong thời kỳ mang thai
Khoa dược (lược dịch)
Tiền sản giật là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong mẹ. Bệnh lý tiền sản giật có liên quan đến sự xâm lấn tế bào nuôi nhau thai và sự tái cấu trúc động mạch xoắn tử cung. Với đặc tính kháng viêm, aspirin được giả thuyết rằng có thể cải thiện sự bám nhau giúp ngăn ngừa tiền sản giật. Vì vậy, spirin liều thấp được khuyến cáo sử dụng để dự phòng tiền sản giật trong thai kỳ. Mặt khác, aspirin cũng được chỉ định cho các trường hợp thai giới hạn tăng trưởng, sinh non, thai lưu. Tuy nhiên, vẫn chưa đủ bằng chứng để đưa ra khuyến cáo về việc sử dụng aspirin liều thấp cho các chỉ định này, khi sản phụ không có yếu tố nguy cơ tiền sản giật.
1. Aspirin dự phòng tiền sản giật
Theo Hiệp hội sản phụ khoa Hoa Kỳ (ACOG – American College of Obstetricians and Gynecologists) và Cơ quan y tế dự phòng Hoa Kỳ (U.S. Preventive Services Task Force), aspirin liều thấp nên được sử dụng ở những sản phụ có nguy cơ mắc tiền sản giật dựa vào tiền sử bệnh của người mẹ. Hướng dẫn mới nhất năm 2021 cho rằng nên sử dụng aspirin liều thấp dự phòng tiền sản giật nếu sản phụ có một yếu tố nguy cơ cao hoặc nhiều hơn một yếu tố nguy cơ trung bình.
Phân loại các yếu tố nguy cơ tiền sản giật:
Thời điểm bắt đầu sử dụng aspirin dự phòng tiền sản giật là từ tuần thứ 12 đến tuần thứ 28 của thai kỳ (tốt nhất là trước tuần thứ 16).
Liều aspirin dự phòng là 81-162mg mỗi ngày. Liều tối ưu dự phòng tiền sản giật là từ 100mg trở lên, cân nhắc sử dụng liều cao ở những bệnh nhân có nguy cơ cao tiền sản giật và sinh non, những thai phụ béo phì.
Một số chống chỉ định cần lưu ý khi sử dụng aspirin:
- Do nguy cơ dị ứng chéo, không dùng aspirin cho người đã có triệu chứng hen, viêm mũi, phù mạch hoặc mày đay khi dùng aspirin hoặc các thuốc chống viêm không steroid khác trước đây.
- Người có bệnh ưa chảy máu hoặc rối loạn chảy máu, giảm tiểu cầu, loét dạ dày hoặc tá tràng đang hoạt động, suy tim vừa và nặng, suy gan nặng, suy thận nặng (tốc độ lọc cầu thận dưới 10ml/phút) và xơ gan.
- Người bị bệnh gout (liều thấp cũng làm tăng nồng độ urat).
2. Aspirin dự phòng thai giới hạn tăng trưởng
Thai giới hạn tăng trưởng thường là do sự khiếm khuyết ở nhau thai. Aspirin liều thấp có thể làm giảm nguy cơ thai giới hạn tăng trưởng có liên quan đến nhau thai. Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu về vấn đề này lại không giống nhau. Kết quả phân tích gộp cho thấy aspirin liều thấp làm giảm tỷ lệ thai giới hạn tăng trưởng, đặc biệt khi bắt đầu sử dụng trước tuần thứ 16 của thai kỳ, nhưng phát hiện này không ghi nhận từ các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng và các thử nghiệm này chưa đủ bằng chứng chứng minh sự khác biệt do thai giới hạn tăng trưởng thường là kết cục thứ cấp. Ngoài ra, tỷ lệ thai giới hạn tăng trưởng trong một số nghiên cứu giảm, có thể là do tác dụng của việc giảm tiền sản giật. Cho nên, aspirin liều thấp vẫn chưa được khuyến cáo sử dụng để dự phòng thai giới hạn tăng trưởng khi không có nguy cơ tiền sản giật.
3. Aspirin dự phòng sinh non
Các thuốc chống viêm không steroid được biết là ức chế sự co thắt cơ tử cung. Sự trùng lặp nguyên nhân gây tiền sản giật và sinh non nguyên phát; bệnh lý mạch máu nhau thai ở phụ nữ sinh non nguyên phát hoặc vỡ màng ối. Các phân tích gộp trước đây đã báo cáo tỷ lệ sinh non giảm do sử dụng aspirin liều thấp là do giảm đồng thời tiền sản giật và sinh non. Năm 2020, nghiên cứu ASPIRIN (Aspirin Supplementation for Pregnancy Indicated Risk Reduction in Nulliparas), thử nghiệm ngẫu nhiên, mù đôi, có đối chứng giả dược trên 11.000 phụ nữ chưa sinh con, được dùng aspirin liều thấp 81mg so với giả dược, từ tuần thứ 6 của thai kỳ, ở các quốc gia có thu nhập từ thấp đến trung bình, cho thấy tỷ lệ sinh non giảm có ý nghĩa thống kê ở nhóm dùng aspirin. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu không chỉ ra được liệu các ca này là sinh non nguyên phát hoặc thứ phát, tỷ lệ phụ nữ sinh non trước 34 tuần của thai kỳ do rối loạn huyết áp trong thai kỳ thấp hơn ở nhóm sử dụng aspirin liều thấp, nhấn mạnh rằng có lẽ việc phòng ngừa tiền sản giật và sinh non là yếu tố làm giảm số ca sinh non ở nhóm dùng aspirin liều thấp. Năm 2022, một thử nghiệm đa trung tâm, ngẫu nhiên, mù đôi, có đối chứng giả dược, thử nghiệm APRIL (Low dose Aspirin in the Prevention of Recurrent Spontaneous Preterm Labour), được tiến hành tại Hà Lan, đã phân nhóm ngẫu nhiên những người có tiền sử sinh non nguyên phát và mang đơn thai để dùng aspirin 80mg so với giả dược, bắt đầu từ tuần thứ 8 đến tuần thứ 16 của thai kỳ. Các nhà nghiên cứu không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ sinh non giữa hai nhóm, mặc dù nghiên cứu chưa chứng minh được tỷ lệ sinh non thấp hơn dự kiến, có thể là do ảnh hưởng của việc sử dụng đồng thời vòng nâng cổ tử cung và bổ sung progesteron. Vì vậy, không khuyến cáo sử dụng aspirin liều thấp để dự phòng sinh non khi không có nguy cơ tiền sản giật.
4. Aspirin dự phòng thai lưu
Thai lưu do rối loạn chức năng nhau thai có cơ chế gây bệnh gần giống với tiền sản giật. Ít có nghiên cứu về hiệu quả của aspirin liều thấp trong dự phòng thai lưu. Trong một thử nghiệm không ngẫu nhiên, tỷ lệ sinh con sống được báo cáo tăng gần gấp đôi khi dùng aspirin liều thấp cho phụ nữ có ít nhất một lần sảy thai trước đó ở tuần thai thứ 13 trở lên và có kết quả xét nghiệm kháng thể kháng phospholipid âm tính. Kết quả tương tự cũng được ghi nhận trong một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu trên 230 phụ nữ bị sảy thai trước đó ở tuần thứ 10 của thai kỳ. Tuy nhiên, kết quả của dữ liệu tiền cứu về thai lưu được thu thập từ những thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng và các phân tích gộp được thiết kế để nghiên cứu về việc sử dụng aspirin liều thấp dự phòng tiền sản giật vẫn chưa có kết luận rõ ràng. Cho đến khi có thêm dữ liệu chứng minh, dự phòng aspirin liều thấp vẫn chưa được khuyến cáo chỉ định dự phòng thai lưu chưa rõ nguyên nhân mà không có yếu tố nguy cơ tiền sản giật.
Tài liệu tham khảo
1) Maura Jones Pullins, Kim Boggess, T. Flint Porter. Aspirin in Pregnancy. Obstet Gynecol 2023;142:1333–40.
2) Low-Dose Aspirin Use for the Prevention of Preeclampsia and Related Morbidity and Mortality. ACOG. 2022. https://www.acog.org/clinical/clinical-guidance/practice-advisory/articles/2021/12/low-dose-aspirin-use-for-the-prevention-of-preeclampsia-and-related-morbidity-and-mortality.
3) Bệnh viện Từ Dũ . Phác đồ điều trị sản phụ khoa. 2022.
4) Dược thư Quốc gia Việt Nam. 2022.
Mirvetuximab soravtansine-gynx đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt điều trị cho bệnh nhân trưởng thành mắc ung thư biểu mô buồng trứng, ống dẫn trứng, hoặc ung thư phúc mạc nguyên phát dương tính với thụ thể folat alpha (FRα), kháng hóa trị, là những bệnh nhân đã trải qua 3 liệu trình điều trị trước đó. Theo các chuyên gia, bệnh nhân mắc các loại ung thư này thường được phát hiện khi bệnh đã ở giai đoạn muộn, trải qua phẫu thuật và sau đó được điều trị bằng phác đồ hóa trị có platinum nhưng có thể trở nên kháng thuốc.
Kháng sinh (KS) phổ rộng được xem như “thần dược” để điều trị các bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng hoặc đe dọa tính mạng khi tác nhân gây bệnh chưa được xác định. Mục đích sử dụng KS phổ rộng nhằm bao phủ nhiều loại tác nhân vi khuẩn gram dương và gram âm, bao gồm cả các tác nhân kháng thuốc trong khi chờ kết quả nuôi cấy. Tuy nhiên, việc sử dụng bừa bãi các KS phổ rộng cũ và mới đã góp phần đáng kể vào sự gia tăng tình trạng kháng kháng sinh (AMR) – một vấn đề sức khỏe toàn cầu đáng lưu ý.
Những dữ kiện của một nghiên cứu tiền lâm sàng cho thấy: đái tháo đường thai kỳ (ĐTĐTK) có thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng và tử vong ở trẻ sơ sinh nguyên nhân do liên cầu khuẩn nhóm B (GBS). Có nhiều lý do như: thay đổi hệ vi sinh vật âm đạo, giảm đáp ứng miễn dịch và quá trình điều hoà thích nghi của vi khuẩn.
Sốt là triệu chứng phổ biến trong thực hành lâm sàng hàng ngày và một số lượng lớn người bệnh nhập viện do sốt. Nhiều người bệnh được dùng thuốc kháng sinh, thuốc kháng vi-rút, thuốc kháng nấm hoặc thuốc kháng ký sinh trùng, nếu coi nhiễm trùng là nguyên nhân chính. Tuy nhiên, thuốc được dùng để điều trị có thể là nguyên nhân tiềm ẩn gây sốt trong bối cảnh như vậy
Năm 2024, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) đã ban hành hướng dẫn về việc sử dụng doxycyclin dự phòng sau phơi nhiễm (doxy-PEP) để phòng ngừa bệnh nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục (STI). Dự phòng sau phơi nhiễm là một chiến lược hoá trị dự phòng, trong đó thuốc được dùng sau khi có khả năng phơi nhiễm để ngăn ngừa nhiễm trùng. Đây là một chiến lược phòng ngừa phổ biến và hiệu quả đối với HIV và các bệnh nhiễm trùng khác, chẳng hạn như bệnh dại và uốn ván. Doxycyclin là một kháng sinh nhóm tetracyclin phổ rộng dung nạp tốt và được khuyến cáo điều trị bệnh chlamydia và là phương pháp thay thế trong điều trị giang mai ở những bệnh nhân không có thai.
Việc bẻ, nghiền viên nén không bao, bao phim, bao đường hoặc mở viên nang giải phóng dược chất tức thì không làm thay đổi sinh khả dụng của thuốc và giúp bệnh nhân tuân thủ điều trị tốt hơn