Sử dụng Azithromycin thay thế cho erythromycin trong dự phòng ối vỡ non
DS. Cao Phan Thu Hằng
Khoa Dược
Ối vỡ non là một bệnh lý thường gặp trong sản khoa và làm tăng tỷ lệ tử vong chu sinh. Ối vỡ non khi tuổi thai càng nhỏ thì hậu quả sẽ dẫn tới nhiễm khuẩn, thai non tháng và thiếu oxy càng nặng nề.
Kháng sinh dự phòng trong vòng 7 ngày cho tất cả các trường hợp được xác định ối vỡ non với tuổi thai < 34 tuần:
- Azithromycin 1g đường uống khi nhập viện, thêm
- Ampicillin 2g IV mỗi 6h trong 48h, sau đó
- Amoxicillin 875mg uống mỗi 12h hoặc 500mg mỗi 8h trong 5 ngày tiếp theo.
Sử dụng ampicillin và amoxicillin để có phổ tác dụng trên liên cầu khuẩn nhóm B (GBS), trực khuẩn gram âm hiếu khí và một số vi khuẩn kỵ khí. Azithromycin có hiệu quả với Ureaplasma, có thể là nguyên nhân chính gây viêm màng ối và cả Chlamydia trachomatis, nguyên nhân chính gây viêm kết mạc ở trẻ sơ sinh và viêm phổi. Ngoài ra, ở những trường hợp ối vỡ non bị nhiễm trùng trong buồng trứng, việc sử dụng clarithromycin đường tĩnh mạch có liên quan đến việc giảm mức độ phản ứng viêm trong buồng trứng.
Theo một phân tích tổng hợp các thử nghiệm ngẫu nhiên năm 2020 cho thấy phác đồ tối ưu kháng sinh dự phòng trong ối vỡ non chưa được xác định. Phác đồ này có tác dụng trên các tác nhân chính gây bệnh đường sinh dục và tương tự như phác đồ đã được chứng minh là có hiệu quả trong thử nghiệm về liệu pháp kháng sinh giúp giảm tỷ lệ trẻ sơ sinh mắc bệnh sau khi người mẹ vỡ ối non của Mạng lưới Đơn vị Y học Bà mẹ và Thai nhi (MFMU) của Viện Quốc gia chăm sóc sức khỏe trẻ em và phát triển con người (NICHD) (ampicillin tiêm tĩnh mạch 2g mỗi 6 giờ và erythromycin 250mg mỗi 6 giờ trong 48 giờ, tiếp theo là amoxicillin 250 mg mỗi 8 giờ và erythromycin 333 mg mỗi 8 giờ trong năm ngày dùng đường uống), được khuyến cáo bởi Hiệp hội sản phụ khoa Hoa Kỳ (ACOG) [20].
Sử dụng Azithromycin thay cho một đợt điều trị dài ngày dùng Erythromycin vì dễ sử dụng, cải thiện khả năng dung nạp qua đường tiêu hóa, chi phí hợp lý và hiệu quả tương tự hoặc tốt hơn, thay thế này cũng được xác nhận bởi ACOG. Trong một phân tích tổng hợp năm 2022, gồm 5 nghiên cứu quan sát so sánh Azithromycin với Erythromycin để dự phòng cho gần 1.300 trường hợp ối vỡ non, azithromycin có liên quan đến tỷ lệ viêm màng ối trên lâm sàng thấp hơn erythromycin (14,5% so với 24,4%, OR=0.53, KTC=95%, 0.39-0.71). Tác giả sử dụng amoxicillin 875mg 2 lần/ngày để thuận tiện cho người bệnh, liều cao hơn so với nghiên cứu của NICHD – MFMU để giảm sự xâm nhập của liên cầu khuẩn nhóm B (GBS) vào âm đạo, nếu có, mặc dù các dữ liệu về hiệu quả không sẵn có.
Kháng sinh dự phòng có thể gây áp lực chọn lọc làm xuất hiện các vi sinh vật kháng thuốc. Ngoài ra, có một lo ngại về mặt lý thuyết rằng tình trạng nhiễm trùng lâm sàng có thể khó nhận biết hoặc khó điều trị hơn ở những bệnh nhân đã dùng kháng sinh dự phòng. Những vấn đề này đã không được quan sát thấy ở những trường hợp ối vỡ non được điều trị dự phòng bằng kháng sinh. Tác dụng có hại lâu dài của kháng sinh trong dự phòng ối vỡ non không quan sát được ở trẻ em (thực hiện theo dõi đến 7 tuổi). Phát hiện này trái ngược với quan sát của cùng nhóm tác giả rằng, ở những bệnh nhân chuyển dạ sinh non với màng ối nguyên vẹn, tỷ lệ bại não tăng lên ở những trẻ tiếp xúc với kháng sinh trong tử cung.
Cần có những nghiên cứu tiếp tục để xác định phác đồ kháng sinh dự phòng tối ưu, với những thay đổi về tính nhạy cảm của vi khuẩn theo thời gian. Một phác đồ thay thế phổ mở rộng đã được đề xuất là ceftriaxon, clarithromycin và metronidazol. Phác đồ này có liên quan đến việc loại bỏ thành công tình trạng viêm /nhiễm trùng trong màng ối trong hai nghiên cứu: một nghiên cứu trong trường hợp ối vỡ non và còn lại là nghiên cứu ở phụ nữ chuyển dạ sinh non với màng ối nguyên vẹn. Các báo cáo khác về các phác đồ điều trị dự phòng bằng kháng sinh cephalosporin thế hệ thứ ba có liên quan đến việc cải thiện tỷ lệ sống của trẻ sơ sinh mà không mắc bệnh nặng khi so sánh với amoxicillin và không làm tăng nhiễm trùng sơ sinh liên quan đến đề kháng cephalosporin thế hệ thứ ba.
Trường hợp dị ứng với penicillin
- Nguy cơ sốc phản vệ thấp:
• Azithromycin 1g đường uống khi nhập viện, thêm
• Cefazolin 1g IV mỗi 8h trong 48h, sau đó
• Cephalexin 500mg uống 4 lần/ngày trong năm ngày
- Nguy cơ sốc phản vệ cao:
• Azithromycin 1g đường uống khi nhập viện, thêm
• Clindamycin 900mg IV mỗi 8h trong 48h, thêm
• Gentamicin 5mg/kg trọng lượng thực cơ thể IV mỗi 24h (2 liều), sau đó
• Clindamycin 300mg uống mỗi 8h trong năm ngày
Phác đồ này phù hợp cho người bệnh có kết quả GBS dương tính và nhạy với Clindamycin
- Nguy cơ sốc phản vệ cao và GBS kháng Clindamycin:
• Azithromycin 1g đường uống khi nhập viện, thêm
Vancomycin 20mg/kg mỗi 8h (liều duy nhất tối đa 2g) trong 48h
Acetaminophen (paracetamol) đã được sử dụng để hạ sốt và giảm đau từ nhẹ đến trung bình. Thuốc có sẵn ở dạng đơn chất hoặc kết hợp với các thuốc khác để điều trị các triệu chứng cảm lạnh, cúm, đau đầu và viêm xương khớp. Tên thương mại phổ biến là Tylenol. Theo Tạp chí Wall Street Journal đưa tin, Bộ trưởng Y tế Hoa Kỳ dự định thông tin về mối liên quan giữa chứng tự kỷ và việc phơi nhiễm với thuốc giảm đau và hạ sốt Tylenol trước khi sinh, như sau:
Tiêm chủng cho mẹ giúp bảo vệ cả mẹ và thai nhi khỏi một số bệnh nhiễm trùng. Lý tưởng nhất là tiêm chủng trước khi thụ thai, nhưng trong một số trường hợp, việc tiêm chủng trong thai kỳ cũng được chỉ định.
Nhiều bằng chứng cho thấy rằng, việc sử dụng kháng sinh ở bệnh nhân tiên lượng nặng bị suy thận cấp (STC) thường không đạt được mục tiêu dược lực học và tỉ lệ tử vong cao liên quan đến nhiễm trùng. Do đó, bài viết này đánh giá những thay đổi thông số về dược động học và dược lực học trên bệnh nhân nặng có STC và đề xuất những giải pháp để có thể tối ưu liều dùng kháng sinh trên những bệnh nhân này.
Trong bản dự thảo cuối cùng, Viện Y tế và Chất lượng Điều trị Quốc gia Anh (NICE) cho biết relugolix-estradiol-norethisterone là một lựa chọn để điều trị các triệu chứng lạc nội mạc tử cung ở những người phụ nữ trưởng thành đang trong độ tuổi sinh sản, nhưng không đáp ứng với phương pháp điều trị nội khoa hoặc phẫu thuật trước đó.
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), có khoảng 10% bệnh nhân tại Mỹ được báo cáo bị dị ứng penicillin. Tuy nhiên, dưới 1% bị dị ứng qua trung gian IgE (loại 1) và các nhà nghiên cứu lưu ý rằng, khoảng 80% bệnh nhân này sẽ mất độ nhạy cảm sau 10 năm. Hơn nữa, CDC khuyến nghị cần xác định những bệnh nhân không thực sự dị ứng penicillin để giảm việc sử dụng kháng sinh phổ rộng không cần thiết. Phản ứng chéo giữa penicillin và cephalosporinlà rất hiếm, nhưng nhiều bác sĩ tránh kê đơn cephalosporin cho bệnh nhân bị dị ứng penicillin, dẫn đến tăng cường sử dụng các loại kháng sinh khác như là quinolon, macrolid, clindamycin, carbapenem và vancomycin, thường gặp nhiều tác dụng phụ hơn, tăng chi phí chăm sóc sức khỏe và góp phần vào tình trạng đề kháng kháng sinh
Độc tính trên thận do thuốc là nguyên nhân phổ biến gây ra tổn thương thận cấp tính (AKI) và kháng sinh (KS) là một trong những nhóm thuốc lớn nhất liên quan đến AKI. Cơ chế gây độc tính trên thận do KS bao gồm tổn thương cầu thận, tổn thương hoặc rối loạn chức năng ống thận, tắc nghẽn ống lượn xa do trụ niệu và viêm thận kẽ cấp tính (AIN) do phản ứng quá mẫn loại IV (loại chậm). Các biểu hiện lâm sàng của độc tính trên thận do KS bao gồm hoại tử ống thận cấp (ATN), AIN và hội chứng Fanconi.