Sử dụng azithromycin trong giai đoạn chuyển dạ giúp bảo vệ mẹ và con khỏi nhiễm trùng
Ds Thân Thị Mỹ Linh (lược dịch)
Khoa Dược
Trên tạp chí Reuters Health ngày ngày 30 tháng 1 năm 2017, trong một bài phân tích sau cuộc thử nghiệm lâm sàng được thực hiện ở Gambia cho thấy việc sử dụng một liều azithromycin cho phụ nữ mang thai trong thời kỳ chuyển dạ giúp bảo vệ bà mẹ và trẻ sơ sinh khỏi bị nhiễm trùng trong 8 tuần. Gambia là một trong những nước có tỷ lệ tử vong mẹ cao nhất ở các nước đang phát triển và tử vong ở trẻ sơ sinh chiếm khoảng 40% tổng số ca tử vong trẻ dưới 5 tuổi.
Trong nghiên cứu thử nghiệm giả dược mù đôi này, họ đã chỉ ra rằng một liều azithromycin 2 g dùng đường uống cho phụ nữ trong quá trình chuyển dạ làm giảm tình trạng nhiễm trùng của mẹ và trẻ sơ sinh với Staphylococcus aureus, Streptococcus pneumoniae và nhiễm Streptococcus nhóm B trong giai đoạn sơ sinh.
Mục đích của phân tích này là đánh giá kết quả sử dụng dự phòng azithromycin với tình trạng nhiễm trùng sau sinh ở mẹ và trẻ sơ sinh đến 8 tuần sau sinh. Những người tham gia gồm 829 phụ nữ (414 người đã dùng azithromycin và 415 người dùng giả dược) và 830 trẻ sơ sinh của các bà mẹ này.
Kết quả cho thấy nhiễm trùng mẹ ở nhóm dùng azithromycin thấp hơn nhóm dùng giả dược (3,6% so với 9,2%; RR, 0,40; p = 0,002), tỷ lệ viêm tuyến vú (1,4% so với 5,1%; RR 0,29; = 0,005) và sốt (1,9% so với 5,8%; RR, 0,33; p = 0,006).
Tỷ lệ nhiễm trùng ở trẻ sơ sinh của những bà mẹ đã từng sử dụng azithromycin trong thời gian chuyển dạ cũng thấp hơn (18,1% so với 23,8%; RR, 0,76; p = 0,052), tỷ lệ nhiễm trùng da (3,1% so với 6,4%; RR 0,49 ; p = 0,034).
Nghiên cứu này ở giai đoạn sơ khởi và họ vẫn đang trong giai đoạn đầu để xác định tác động tiềm ẩn của can thiệp được đề xuất. Những phát hiện cần được tiếp tục nghiên cứu vì đã cho thấy khả năng làm giảm mạnh tình trạng nhiễm trùng (viêm vú ở phụ nữ và nhiễm trùng da ở trẻ sơ sinh) phổ biến ở phụ nữ và trẻ sơ sinh trong suốt 8 tuần đầu sau sinh.
Nhóm nghiên cứu sắp bắt đầu một thử nghiệm mới tại hai quốc gia ở Tây Phi là Gambia và Burkina Faso, nhằm mục đích đánh giá tác động của việc can thiệp vào những trường hợp bệnh nặng và tử vong. Nhóm nghiên cứu cũng lưu ý rằng can thiệp này không được thiết kế để thực hiện ở các nước phát triển. Cơ sở lý luận chung của nghiên cứu này là chọn lựa một can thiệp mới để giảm tỷ lệ mắc bệnh và tử vong trong thời gian hậu sản phụ nữ và trẻ sơ sinh ở các nước có cơ sở hạ tầng và nguồn lực về sức khoẻ hạn chế. Azithromycin không đòi hỏi các điều kiện bảo quản đặc biệt như dây chuyền lạnh. Việc sử dụng thuốc này không cần thực hiện các xét nghiệm hay thăm khám tiếp theo.
Tuy nhiên, chú ý đến các tác dụng không mong muốn azithromycin như sự đề kháng kháng sinh, tác dụng bất lợi của thuốc. Cân nhắc giữa những lợi ích có thể thấy được trong nghiên cứu này với những tác hại tiềm ẩn đối với việc tiếp xúc với azithromycin, cần thực hiện thêm nhiều nghiên cứu hơn trước khi việc triển khai sử dụng azithromycin trong chuyển dạ trở nên phổ biến.
Tài liệu tham khảo
- Pediatrics 2017.
- http://www.medscape.com/viewarticle/875028
Sốt là triệu chứng phổ biến trong thực hành lâm sàng hàng ngày và một số lượng lớn người bệnh nhập viện do sốt. Nhiều người bệnh được dùng thuốc kháng sinh, thuốc kháng vi-rút, thuốc kháng nấm hoặc thuốc kháng ký sinh trùng, nếu coi nhiễm trùng là nguyên nhân chính. Tuy nhiên, thuốc được dùng để điều trị có thể là nguyên nhân tiềm ẩn gây sốt trong bối cảnh như vậy
Năm 2024, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) đã ban hành hướng dẫn về việc sử dụng doxycyclin dự phòng sau phơi nhiễm (doxy-PEP) để phòng ngừa bệnh nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục (STI). Dự phòng sau phơi nhiễm là một chiến lược hoá trị dự phòng, trong đó thuốc được dùng sau khi có khả năng phơi nhiễm để ngăn ngừa nhiễm trùng. Đây là một chiến lược phòng ngừa phổ biến và hiệu quả đối với HIV và các bệnh nhiễm trùng khác, chẳng hạn như bệnh dại và uốn ván. Doxycyclin là một kháng sinh nhóm tetracyclin phổ rộng dung nạp tốt và được khuyến cáo điều trị bệnh chlamydia và là phương pháp thay thế trong điều trị giang mai ở những bệnh nhân không có thai.
Việc bẻ, nghiền viên nén không bao, bao phim, bao đường hoặc mở viên nang giải phóng dược chất tức thì không làm thay đổi sinh khả dụng của thuốc và giúp bệnh nhân tuân thủ điều trị tốt hơn
Trẻ em không phải người lớn thu nhỏ. Các yếu tố dược động học ở trẻ sơ sinh thay đổi liên tục do sự phát triển nhanh về sinh lý. Tiêm tĩnh mạch thường được sử dụng trong điều trị cho trẻ sơ sinh, đặc biệt khi trẻ đang điều trị tại đơn vị chăm sóc tích cực. Khi tiêm tĩnh mạch, hiệu quả gần như tức thời. Hầu hết các loại thuốc tiêm tĩnh mạch cho trẻ sơ sinh có những yêu cầu riêng về độ pha loãng và/hoặc tốc độ truyền.
Trong giai đoạn năm 2018-2021, Mạng lưới An toàn Chăm sóc Sức khỏe Quốc gia (NHSN) đã báo cáo rằng 0,4% (n = 1.951) các ca nhiễm trùng mắc phải tại bệnh viện (HAI) ở Hoa Kỳ nguyên nhân do Acinetobacter spp. gây ra. Trong số này có 28-45% không nhạy cảm với kháng sinh carbapenem (tức là trung gian hoặc đề kháng).
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCT), BLING III cung cấp bằng chứng việc sử dụng truyền liên tục (CI) so với truyền ngắt quãng piperacillin/tazobactam và meropenem trên bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Điều này được củng cố bởi một đánh giá tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp (SRMA) của 18 RCT về CI hoặc truyền kéo dài (EI) (thời gian từ 3–4 giờ) các kháng sinh beta-lactam. Thách thức hiện nay là chuyển đổi CI như một tiêu chuẩn chăm sóc cho bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Các cân nhắc chính bao gồm các vấn đề sau: