Sử dụng biện pháp ngừa thai chứa nội tiết tốcho những mục đích khác
Khoa Dược – BV Từ Dũ
Miếng dán ngừa thai có hiệu quả tương tự như viên uống ngừa thai phối hợp, do đó có thể kỳ vọng dạng bào chế này có tác dụng làm giảm thai ngoài tử cung, điều hòa và làm giảm ra huyết, và giảm đau bụng kinh. Miếng dán chu kỳ kéo dài đã được sử dụng để làm giảm những triệu chứng liên quan đến chu kỳ kinh nguyệt, bao gồm cả chứng đau nửa đầu. Miếng dán ngừa thai cũng có hiệu quả trên thụ thể androgen tương đương với viên uống ngừa thai phối hợp, và như vậy có thể mong đợi ảnh hưởng tích cực đối với những bệnh liên quan đến androgen như mụn. Thông tin về những lợi ích khác ngoài ngừa thai của que cấy ngừa thai chứa progestin còn hạn chế. Hệ thống phóng thích levonorgestrel trong tử cung là một biện pháp ngừa thai có hiệu quả cao với những lợi ích đáng kể khác trên những phụ nữ bị cường kinh và thống kinh. Nhiều nghiên cứu đã khẳng định hiệu quả của hệ thống phóng thích levonorgestrel trong tử cung trong việc làm giảm lượng máu mất trong kỳ kinh ở những người bị rong kinh nguyên phát, lạc nội mạc trong cơ tử cung, u xơ, đau do lạc nội mạc tử cung, và rối loạn đông máu, nhờ đó làm giảm thống kinh và thiếu máu.
* Nội dung chi tiết vui lòng bạn tải file .pdf.
Kháng sinh chiếm gần 80% tổng số đơn thuốc được kê trong thời kỳ mang thai, và khoảng 20%–25% phụ nữ sẽ sử dụng kháng sinh trong thai kỳ. Các bệnh nhiễm trùng phổ biến nhất bao gồm nhiễm trùng đường tiết niệu (UTIs), nhiễm trùng đường sinh dục, nhiễm trùng da - mô mềm và nhiễm trùng đường hô hấp. Việc sử dụng kháng sinh trong thai kỳ luôn cần được cân nhắc giữa nguy cơ và lợi ích.
Lạc nội mạc tử cung là bệnh lý viêm mạn tính phụ thuộc estrogen, ảnh hưởng khoảng 10% phụ nữ trong độ tuổi sinh sản.
Bệnh đặc trưng bởi sự hiện diện của mô nội mạc tử cung ngoài buồng tử cung, gây đau bụng kinh, đau khi giao hợp, đau vùng chậu kéo dài và vô sinh, làm giảm đáng kể chất lượng cuộc sống.
Điều trị cần được cá thể hóa, tùy theo mức độ triệu chứng, vị trí tổn thương và nhu cầu sinh sản. Hướng dẫn hiện nay khuyến nghị kết hợp giữa điều trị nội khoa, ngoại khoa và hỗ trợ không dùng thuốc.
Phản ứng có hại của thuốc (ADR) là vấn đề thường gặp trong thực hành lâm sàng và có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ, tính mạng người bệnh nếu không được nhận biết sớm và xử trí kịp thời.
Acetaminophen (paracetamol) đã được sử dụng để hạ sốt và giảm đau từ nhẹ đến trung bình. Thuốc có sẵn ở dạng đơn chất hoặc kết hợp với các thuốc khác để điều trị các triệu chứng cảm lạnh, cúm, đau đầu và viêm xương khớp. Tên thương mại phổ biến là Tylenol. Theo Tạp chí Wall Street Journal đưa tin, Bộ trưởng Y tế Hoa Kỳ dự định thông tin về mối liên quan giữa chứng tự kỷ và việc phơi nhiễm với thuốc giảm đau và hạ sốt Tylenol trước khi sinh, như sau:
Tiêm chủng cho mẹ giúp bảo vệ cả mẹ và thai nhi khỏi một số bệnh nhiễm trùng. Lý tưởng nhất là tiêm chủng trước khi thụ thai, nhưng trong một số trường hợp, việc tiêm chủng trong thai kỳ cũng được chỉ định.
Nhiều bằng chứng cho thấy rằng, việc sử dụng kháng sinh ở bệnh nhân tiên lượng nặng bị suy thận cấp (STC) thường không đạt được mục tiêu dược lực học và tỉ lệ tử vong cao liên quan đến nhiễm trùng. Do đó, bài viết này đánh giá những thay đổi thông số về dược động học và dược lực học trên bệnh nhân nặng có STC và đề xuất những giải pháp để có thể tối ưu liều dùng kháng sinh trên những bệnh nhân này.



