Sử dụng cloramphenicol ở phụ nữ cho con bú
DS. Đặng Nguyễn Quỳnh Như – Khoa Dược
(Dịch)
|
Đường uống và tiêm tĩnh mạch |
Tại chỗ |
Khuyến cáo |
Nên tránh sử dụng trong giai đoạn đang cho con bú. |
Có thể sử dụng thận trọng các chế phẩm chứa cloramphenicol cho mắt và tai trong thời kỳ cho con bú. Tuy nhiên, không nên sử dụng cho những bà mẹ có tiền sử hoặc gia đình mắc chứng rối loạn máu. Trong trường hợp này, các chế phẩm axit fusidic hoặc gentamicin sẽ được ưu tiên sử dụng. |
Lượng thuốc phân bố trong sữa |
Nồng độ cloramphenicol khác nhau được tìm thấy trong sữa mẹ sau khi sử dụng đường uống với mức dao động từ 0,3 – 8,5% liều sử dụng theo cân nặng hiệu chỉnh. Chưa có báo cáo về nồng độ cloramphenicol sau khi tiêm tĩnh mạch. |
Không có dữ liệu về nồng độ cloramphenicol trong sữa mẹ sau khi dùng cloramphenicol tại chỗ. Dựa trên các đặc tính của thuốc và sự hấp thụ thuốc là tối thiểu, mức độ được dự đoán là rất thấp. |
Nguy cơ độc tính trên huyết học |
Cloramphenicol uống và tiêm tĩnh mạch có liên quan đến các tác dụng phụ nghiêm trọng về huyết học. Mặc dù những tác dụng phụ như vậy chưa được báo cáo ở trẻ bú mẹ, nhưng cũng có nguy cơ đáng kể. Đặc biệt là tăng nguy cơ thiếu máu bất sản. Tác dụng này không liên quan đến liều lượng và có thể xảy ra do phơi nhiễm khi cho con bú. |
Có bằng chứng mâu thuẫn về việc liệu cloramphenicol tại chỗ có thể gây thiếu máu bất sản hay không. Do đó, vẫn có nguy cơ về lý thuyết rằng một lượng rất thấp cloramphenicol có thể đi vào sữa mẹ từ các chế phẩm tại chỗ có thể gây ra thiếu máu bất sản. |
Nguy cơ bé mắc hội chứng xám |
Cloramphenicol có thể gây ngộ độc ở một số trẻ sinh non và trẻ nhỏ vì gan chưa trưởng thành, các men gan không thể chuyển hóa và bài tiết cloramphenicol. Các triệu chứng của hội chứng xám bao gồm màu da xám, chướng bụng, nôn mửa, bủn rủn tay chân và khó thở. Tuy nhiên, điều này chưa được báo cáo do phơi nhiễm khi cho con bú. |
|
Các tác dụng phụ được báo cáo |
Một nghiên cứu đã báo cáo một số tác dụng phụ ở trẻ bú mẹ sau khi mẹ sử dụng cloramphenicol đường uống với liều lượng từ 1-3g mỗi ngày. Các tác dụng phụ được báo cáo là bú kém, buồn ngủ, nôn mửa, đầy hơi và chướng bụng. Không có nghiên cứu nào khác báo cáo tác dụng phụ ở trẻ sơ sinh khi tiếp xúc với cloramphenicol qua sữa mẹ. |
Không có tác dụng phụ nào được báo cáo ở trẻ sơ sinh bú sữa mẹ đã tiếp xúc với cloramphenicol tại chỗ. |
Theo dõi trẻ sơ sinh:
Nếu người mẹ sử dụng cloramphenicol tại chỗ, trẻ sơ sinh nên được theo dõi các tác dụng phụ sau đây (như một biện pháp phòng ngừa):
Tóm lại: Đối với phụ nữ cho con bú, có thể sử dụng cloramphenicol tại chỗ một cách thận trọng và theo dõi, không khuyến cáo sử dụng cloramphenicol toàn thân. Khuyến cáo được áp dụng cho trẻ sơ sinh đủ tháng và khỏe mạnh.
Tài liệu tham khảo
https://www.sps.nhs.uk/articles/using-chloramphenicol-in-breastfeeding/
Published 16 June 2022
Trong giai đoạn năm 2018-2021, Mạng lưới An toàn Chăm sóc Sức khỏe Quốc gia (NHSN) đã báo cáo rằng 0,4% (n = 1.951) các ca nhiễm trùng mắc phải tại bệnh viện (HAI) ở Hoa Kỳ nguyên nhân do Acinetobacter spp. gây ra. Trong số này có 28-45% không nhạy cảm với kháng sinh carbapenem (tức là trung gian hoặc đề kháng).
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCT), BLING III cung cấp bằng chứng việc sử dụng truyền liên tục (CI) so với truyền ngắt quãng piperacillin/tazobactam và meropenem trên bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Điều này được củng cố bởi một đánh giá tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp (SRMA) của 18 RCT về CI hoặc truyền kéo dài (EI) (thời gian từ 3–4 giờ) các kháng sinh beta-lactam. Thách thức hiện nay là chuyển đổi CI như một tiêu chuẩn chăm sóc cho bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Các cân nhắc chính bao gồm các vấn đề sau:
Các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Alabama tại Birmingham, đã tiến hành phân tích dữ liệu thứ cấp trên đối tượng phụ nữ tăng huyết áp mạn tính trong thai kỳ, so sánh với phương pháp điều trị chính. Tăng huyết áp mạn tính nhẹ trong nghiên cứu được định nghĩa là huyết áp 140-159/90-104 mmHg trước 20 tuần của thai kỳ.
Nhiễm trùng huyết – sepsis - vẫn là một trong những nguyên nhân gây tử vong lớn nhất trên thế giới, Tổ chức Y tế Thế giới ước tính 11 triệu người tử vong mỗi năm do tình trạng này. Các yếu tố chính của việc quản lý sepsis là chẩn đoán sớm, liệu pháp kháng sinh kinh nghiệm sớm và phù hợp, với biện pháp kiểm soát nguồn gây bệnh thích hợp và bảo tồn chức năng các cơ quan.
Sự ra đời của vắc-xin giúp chúng ta chủ động phòng chống các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Tổ chức y tế thế giới ước tính chương trình tiêm chủng hiện nay giúp ngăn ngừa 3,5-5 triệu ca tử vong mỗi năm do các bệnh như bạch hầu, uốn ván, ho gà, cúm và sởi [2].
Phòng ngừa suy nhược, mệt mỏi, đau nhức:
Hoạt động mỗi ngày đi bộ ngắn, tập các bài tập nhẹ nhàng. Giữ tinh thần ổn định
Chế độ ăn hợp lý trao đổi thêm với bác sĩ về dinh dưỡng bổ sung (thực phẩm giàu protein như thịt, cá, phô mai, sữa chua...). Uống nhiều nước, trừ khi có hướng dẫn khác.
Chườm khăn lạnh nếu có nhức mỏi, đau cơ.