Sử dụng estrogen đường âm đạo trên phụ nữ có tiền căn ung thư vú phụ thuộc estrogen
Ds. Huỳnh Thị Hồng Gấm (Lược dịch)
Khoa Dược- BV Từ Dũ
Khuyến cáo và kết luận
Đại học sản phụ khoa Hoa Kỳ (ACOG) đã đưa ra những khuyến cáo và kết luận như sau:
- Phương pháp không hóc-môn là lựa chọn đầu tay trong việc can thiệp trên các triệu chứng niệu sinh dục hoặc các triệu chứng có liên quan đến teo đường tiết niệu cho các phụ nữ trong suốt quá trình điều trị hoặc sau khi điều trị ung thư vú.
- Trong số những phụ nữ có tiền căn ung thư vú phụ thuộc estrogen, đang phải chịu đựng các triệu chứng niệu sinh dục, nên ưu tiên estrogen đường âm đạo cho các bệnh nhân không đáp ứng với các biện pháp không hóc-môn.
- Quyết định sử dụng estrogen đường âm đạo có thể phối hợp với bác sĩ điều trị ung thư của bệnh nhân. Ngoài ra, trị liệu phải được bắt đầu bằng một quyết định và sự đồng ý của bệnh nhân dựa trên các nguồn thông tin về cân nhắc giữa lợi ích và nguy cơ tiềm ẩn của estrogen đường âm đạo liều thấp.
- Các dữ liệu cho thấy không tăng nguy cơ tái phát ung thư trong số những phụ nữ đang trải qua điều trị ung thư vú hoặc trên những bệnh nhân có tiền căn ung thư vú được sử dụng estrogen đường âm đạo để giảm các triệu chứng niệu sinh dục.
Estrogen đường âm đạo liều thấp. Chế phẩm và phác đồ đề nghị
Dạng thuốc |
Công thức |
Liều FDA phê duyệt« |
Kem đường âm đạo |
17β- estradiol |
Liều thường dùng là 2 - 4 g (đánh dấu trên dụng cụ) mỗi ngày cho 1 hoặc 2 tuần, sau đó giảm dần đến nửa liều khởi đầu trong khoảng thời gian tương tự. Liều duy trì là 1 g, 1 đến 3 lần 1 tuần có thể sử dụng sau khi niêm mạc âm đạo được phục hồi (†) |
Kem đường âm đạo |
Estrogen liên hợp |
Can thiệp theo chu kỳ 0,5 g trong âm đạo (mỗi ngày trong 21 ngày sau đó ngưng 7 ngày) trong điều trị chứng giao hợp đau mức vừa đến nặng, một triệu chứng của teo âm hộ và âm đạo vì tiền mãn kinh. Sử dụng 0,5 g trong âm đạo 2 lần mỗi tuần (ví dụ, thứ 2 và thứ 5) trong điều trị chứng giao hợp đau mức vừa đến nặng, một triệu chứng của teo âm hộ và âm đạo vì tiền mãn kinh (‡) |
Vòng đặt âm đạo |
17β- estradiol |
Vòng 2 mg phóng thích 7,5 mcg/ngày trong 90 ngày |
Viên đặt âm đạo |
Estradiol hemihydrate |
10 mcg/ngày trong 2 tuần và sau đó 10 mcg/ngày 2 lần mỗi tuần |
«: Liều dùng của Estrogen liên hợp và kem estrogen được FDA phê duyệt cao hơn liều dùng trên thực hành lâm sàng, liều trên thực hành lâm sàng đã chứng minh là có hiệu quả
(†): Trên thực hành lâm sàng, các hướng dẫn dùng liều 1 g mỗi đêm cho 2 tuần, sau đó 2 lần mỗi tuần hoặc 0,5g 2 lần mỗi tuần
(‡): Trên thực hành lâm sàng, các hướng dẫn dùng liều 0,5 g 2 lần mỗi tuần
Kết luận
Phương pháp không hóc-môn là lựa chọn đầu tay trong việc can thiệp trên các triệu chứng niệu sinh dục hoặc các triệu chứng có liên quan đến teo đường tiết niệu cho các phụ nữ trong suốt quá trình điều trị hoặc sau khi điều trị ung thư vú. Trong số những phụ nữ có tiền căn ung thư vú phụ thuộc estrogen, đang bị chịu đựng các triệu chứng niệu sinh dục, nên ưu tiên estrogen đường âm đạo cho các bệnh nhân không đáp ứng với các biện pháp không hóc-môn. Nên cá thể hóa điều trị dựa trên tỷ số lợi ích- nguy cơ và biểu hiện lâm sàng. Quyết định sử dụng estrogen đường âm đạo có thể phối hợp với bác sĩ điều trị ung thư của bệnh nhân. Ngoài ra, trị liệu phải được bắt đầu bằng một quyết định và sự đồng ý của bệnh nhân dựa trên các nguồn thông tin về cân nhắc giữa lợi ích và nguy cơ tiềm năng của estrogen đường âm đạo liều thấp. Khi quyết định sử dụng estrogen đường âm đạo, phải kê đơn liều thấp nhất có tác động lên triệu chứng trên âm đạo trong một thời gian giới hạn cho đến khi triệu chứng được cải thiện.
Tài liệu tham khảo
The Use of Vaginal Estrogen in Women With a History of Estrogen-Dependent Breast Cancer. ACOG. Committee opinion. Number 659, march 2016.
Trong bản dự thảo cuối cùng, Viện Y tế và Chất lượng Điều trị Quốc gia Anh (NICE) cho biết relugolix-estradiol-norethisterone là một lựa chọn để điều trị các triệu chứng lạc nội mạc tử cung ở những người phụ nữ trưởng thành đang trong độ tuổi sinh sản, nhưng không đáp ứng với phương pháp điều trị nội khoa hoặc phẫu thuật trước đó.
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), có khoảng 10% bệnh nhân tại Mỹ được báo cáo bị dị ứng penicillin. Tuy nhiên, dưới 1% bị dị ứng qua trung gian IgE (loại 1) và các nhà nghiên cứu lưu ý rằng, khoảng 80% bệnh nhân này sẽ mất độ nhạy cảm sau 10 năm. Hơn nữa, CDC khuyến nghị cần xác định những bệnh nhân không thực sự dị ứng penicillin để giảm việc sử dụng kháng sinh phổ rộng không cần thiết. Phản ứng chéo giữa penicillin và cephalosporinlà rất hiếm, nhưng nhiều bác sĩ tránh kê đơn cephalosporin cho bệnh nhân bị dị ứng penicillin, dẫn đến tăng cường sử dụng các loại kháng sinh khác như là quinolon, macrolid, clindamycin, carbapenem và vancomycin, thường gặp nhiều tác dụng phụ hơn, tăng chi phí chăm sóc sức khỏe và góp phần vào tình trạng đề kháng kháng sinh
Độc tính trên thận do thuốc là nguyên nhân phổ biến gây ra tổn thương thận cấp tính (AKI) và kháng sinh (KS) là một trong những nhóm thuốc lớn nhất liên quan đến AKI. Cơ chế gây độc tính trên thận do KS bao gồm tổn thương cầu thận, tổn thương hoặc rối loạn chức năng ống thận, tắc nghẽn ống lượn xa do trụ niệu và viêm thận kẽ cấp tính (AIN) do phản ứng quá mẫn loại IV (loại chậm). Các biểu hiện lâm sàng của độc tính trên thận do KS bao gồm hoại tử ống thận cấp (ATN), AIN và hội chứng Fanconi.
Trong 6 tháng đầu năm 2025, Bệnh viện Từ Dũ ghi nhận 204 báo cáo ADR, tăng 1,3 lần so với cùng kỳ năm 2024 (160 báo cáo).
Việc sử dụng hệ thống phóng thích Levonorgestrel trong tử cung (LNG-IUS: Levonorgestrel-releasing intrauterine system) có liên quan đến tăng nguy cơ ung thư vú. Một nghiên cứu ở Đan Mạch ghi nhận 14 trường hợp ung thư vú trên 10.000 phụ nữ tránh thai bằng LNG-IUS so với phụ nữ tránh thai không dùng nội tiết.
Theo kết quả của một nghiên cứu trên JAMA Network Open, tiêm vắc-xin cúm không liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc các kết quả bất lợi trong thời kỳ chu sinh đối với những người mang thai liên tiếp. Các tác giả nghiên cứu cho biết những phát hiện này ủng hộ các khuyến nghị hiện tại cho những người mang thai hoặc những người có thể mang thai trong mùa cúm.