Sử dụng kháng sinh - Lợi bất cập hại
CN. Nguyễn Thị Minh Tâm
P. Công tác xã hội

Kháng sinh là thuốc có khả năng tiêu diệt các loại vi khuẩn gây bệnh, hoặc kìm hãm sự phát triển của vi khuẩn. Kháng sinh không chỉ tiêu diệt các vi khuẩn gây bệnh, mà còn có ảnh hưởng tới các lợi khuẩn đường ruột - có vai trò quan trọng trong quá trình tiêu hóa và miễn dịch. Lạm dụng kháng sinh có thể dẫn đến tình trạng kháng kháng sinh, nghĩa là bạn sẽ phải sử dụng kháng sinh liều cao hơn, hoặc các loại kháng sinh khác để điều trị tình trạng nhiễm khuẩn sau này, dẫn đến tình trạng suy giảm hệ miễn dịch, sức khỏe suy yếu.
Hiện tượng vi khuẩn kháng với các loại thuốc kháng sinh hiện đang ngày càng phổ biến và có nguy cơ lan rộng, làm hạn chế việc điều trị những trường hợp nhiễm khuẩn, đặc biệt, nhiều khuẩn kháng thuốc còn khiến nguy cơ tử vong tăng cao, nhất là với nhiễm trùng huyết, sốc nhiễm khuẩn….
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), kháng kháng sinh là vấn nạn toàn cầu ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng và đe dọa sự phát triển bền vững của các quốc gia.
Tại Việt Nam, trong những năm gần đây tuy đã có nhiều thành tựu trong các lĩnh vực khoa học – kỹ thuật, y học, văn hóa – thể thao, …nhưng lại nằm trong danh sách các quốc gia có tốc độ lan rộng các vi khuẩn kháng nhiều loại kháng sinh do tình trạng lạm dụng kháng sinh và sự thiếu kiểm soát của nhân viên y tế trong việc sử dụng các loại thuốc này. Theo một nghiên cứu của Bộ Y tế, việc tự ý sử dụng thuốc kháng sinh của người dân ở nông thôn lên tới 91%, trong khi ở thành thị chỉ có 88%.
Sử dụng kháng sinh một cách hợp lý, an toàn và hiệu quả trong các cơ sở y tế và ở cộng đồng hiện đang là vấn đề quan tâm hàng đầu của ngành y tế, theo đó, đội ngũ y – bác sĩ, dược sĩ những người nắm giữ vai trò chính trong việc duy trì hiệu lực của kháng sinh, được thể hiện qua việc lựa chọn kháng sinh thích hợp, kê đơn kháng sinh dựa vào hướng dẫn điều trị và dữ liệu vi sinh, sử dụng kháng sinh đúng liều lượng và đủ thời gian, giúp người bệnh được điều trị và cải thiện tình trạng nhiễm khuẩn.
Đây cũng là những nội dung y - dược học thực tiễn được TS.BS Nguyễn Phú Hương Lan, Trưởng khoa Vi sinh – Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới (TP Hồ Chí Minh) cập nhật thông tin và chia sẻ kinh nghiệm trong công tác điều trị liên quan đến sử dụng kháng sinh đặc biệt đối với các bệnh lý sản khoa, trong buổi Hội thảo khoa học ngày 6/9/2018 tai Bệnh viện Từ Dũ, với chủ đề Diễn giải kết quả và lựa chọn kháng sinh dựa vào kháng sinh đồ, với sự chủ toạ của BS Lê Quang Thanh, Giám đốc Bệnh viện Từ Dũ cùng sự tham dự của trên 150 viên chức y tế.
- Bệnh viện đã thực hiện 378 báo cáo ADR, giảm 7,9% so với năm 2023 (408 báo cáo), tăng 14,2% so với năm 2022 (331 báo cáo).
- Số lượng báo cáo ADR ngoại trú là 18 báo cáo, giảm 3,6 lần so với năm 2023 (66 báo cáo).
- Bệnh viện Từ Dũ được Trung tâm DI&ADR quốc gia xếp hạng 8/991 cơ sở khám chữa bệnh có hoạt động theo dõi ADR hiệu quả trong báo cáo tổng kết ADR quốc gia vào tháng 9/2024.
Mirvetuximab soravtansine-gynx đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt điều trị cho bệnh nhân trưởng thành mắc ung thư biểu mô buồng trứng, ống dẫn trứng, hoặc ung thư phúc mạc nguyên phát dương tính với thụ thể folat alpha (FRα), kháng hóa trị, là những bệnh nhân đã trải qua 3 liệu trình điều trị trước đó. Theo các chuyên gia, bệnh nhân mắc các loại ung thư này thường được phát hiện khi bệnh đã ở giai đoạn muộn, trải qua phẫu thuật và sau đó được điều trị bằng phác đồ hóa trị có platinum nhưng có thể trở nên kháng thuốc.
Kháng sinh (KS) phổ rộng được xem như “thần dược” để điều trị các bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng hoặc đe dọa tính mạng khi tác nhân gây bệnh chưa được xác định. Mục đích sử dụng KS phổ rộng nhằm bao phủ nhiều loại tác nhân vi khuẩn gram dương và gram âm, bao gồm cả các tác nhân kháng thuốc trong khi chờ kết quả nuôi cấy. Tuy nhiên, việc sử dụng bừa bãi các KS phổ rộng cũ và mới đã góp phần đáng kể vào sự gia tăng tình trạng kháng kháng sinh (AMR) – một vấn đề sức khỏe toàn cầu đáng lưu ý.
Những dữ kiện của một nghiên cứu tiền lâm sàng cho thấy: đái tháo đường thai kỳ (ĐTĐTK) có thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng và tử vong ở trẻ sơ sinh nguyên nhân do liên cầu khuẩn nhóm B (GBS). Có nhiều lý do như: thay đổi hệ vi sinh vật âm đạo, giảm đáp ứng miễn dịch và quá trình điều hoà thích nghi của vi khuẩn.
Tiền sản giật là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong mẹ. Bệnh lý tiền sản giật có liên quan đến sự xâm lấn tế bào nuôi nhau thai và sự tái cấu trúc động mạch xoắn tử cung. Với đặc tính kháng viêm, aspirin được giả thuyết rằng có thể cải thiện sự bám nhau giúp ngăn ngừa tiền sản giật. Vì vậy, spirin liều thấp được khuyến cáo sử dụng để dự phòng tiền sản giật trong thai kỳ. Mặt khác, aspirin cũng được chỉ định cho các trường hợp thai giới hạn tăng trưởng, sinh non, thai lưu.
Sốt là triệu chứng phổ biến trong thực hành lâm sàng hàng ngày và một số lượng lớn người bệnh nhập viện do sốt. Nhiều người bệnh được dùng thuốc kháng sinh, thuốc kháng vi-rút, thuốc kháng nấm hoặc thuốc kháng ký sinh trùng, nếu coi nhiễm trùng là nguyên nhân chính. Tuy nhiên, thuốc được dùng để điều trị có thể là nguyên nhân tiềm ẩn gây sốt trong bối cảnh như vậy