Sử dụng kháng sinh cập nhật 2010
DS. Đặng Thị Thuận Thảo
Khoa Dược – BV Từ Dũ
I. Kháng sinh phổ rộng:
Kháng sinh này bao gồm: cephalosporins thế hệ thứ hai hoặc thứ ba, imipenem, nhóm beta-lactam, không kể đến nhóm fluoroquinolones thế hệ mới và chloramphenicol. Ở Mỹ, chloramphenicol được cân nhắc là thuốc thay thế trong những trường hợp đề kháng penicillins hoặc dị ứng penicillins ở những bệnh nhân viêm màng não.
Những thuốc thuộc thế hệ mới này có sự khác biệt đối với thế hệ cũ vì có tác động trên vi khuẩn gram + (ví dụ vi khuẩn kháng penicillin Streptococcus pneumoniae và Staphylococcus aureus); vi khuẩn gram -, vi khuẩn kỵ khí. Trong hầu hết điều kiện, những thuốc này đạt nồng độ trong huyết tương tương đương khi sử dụng đường tiêm và đường uống liều đơn mỗi ngày.
Kháng sinh phổ rộng không nên sử dụng theo kinh nghiệm và bừa bãi trong các loại nhiễm khuẩn. Có nhiều cuộc tranh luận về việc sử dụng kháng sinh phổ rộng làm gia tăng tỷ lệ đề kháng thuốc. Thói quen sử dụng kháng sinh phổ rộng trong những trường hợp nhiễm khuẩn nhẹ có ý nghĩa làm tăng thêm tỷ lệ nhiễm khuẩn và tỷ lệ vi khuẩn đề kháng và gây khó khăn cho việc điều trị. Theo nguồn của CDC, việc sử dụng bừa bãi kháng sinh phổ rộng hiện nay làm tăng nguy cơ gấp 2 lần khả năng nguy cơ nhiễm vi khuẩn đề kháng.
Một số bệnh viện hiện nay đưa ra những quy định về việc sử dụng những kháng sinh như vancomycin, ceftriaxone, và imipenem cho những trường hợp đặc biệt. Điều này góp phần bảo vệ người bệnh tránh 2 lần nguy cơ nhiễm vi khuẩn đề kháng, và cũng giảm tỷ lệ đề kháng nhiều thuốc ở cộng đồng. Và hiện tại nhiều loại thuốc đã kháng với S aureus, Enterococcus, Pseudomonas aeruginosa, virút sốt rét, lao phổi là những ví dụ về hậu quả của việc sử dụng bừa bãi kháng sinh điều trị.
II. Kháng sinh nhóm Cephalosporin:
Ví dụ về các thuốc thuộc nhóm này bao gồm cefmetazole, cefuroxim, cefoxitin, cefotetan, và cefamandole.
III. Kháng sinh điều trị vi khuẩn kỵ khí
Kháng sinh có tác dụng tốt trên vi khuẩn kỵ khí bao gồm: metronidazole (250 mg PO, 500 mg IV), clindamycin IV (Dalacin C 600 mg), và amoxicillin/clavulanate PO (Claminat 625mg); ampicillin/sulbactam 3 g, piperacillin/tazobactam (Tazocin 4.5g).
Trong những trường hợp phẫu thuật và mổ phụ khoa có rạch bụng, nên chỉ định metronidazol vì đây là thuốc duy nhất có thể có tác dụng với Bacteroides fragilis, vi khuẩn ruột kết thường gặp.
Mặc dù thực tế hầu hết các kháng sinh có thể liên quan với viêm đại tràng do Clostridium difficile, riêng clindamycin có những bằng chứng có khả năng gây ra những tác dụng phụ nặng có thể gây tử vong. Vì lý do này, metronidazole là thuốc được lựa chọn ưu tiên trong những trường hợp nhiễm vi khuẩn kỵ khí.
IV. Kháng sinh điều trị Pseudomonas Aeruginosa
Nếu nghi ngờ nhiễm khuẩn do Pseudomonas, việc tăng liều được cân nhắc.
Kháng sinh có tác dụng chống lại P aeruginosa bao gồm ceftazidime (cefodimex 1g), ticarcillin (Timentin 3.2g), aminoglycoside, imipenem, meropenem, levofloxacin, và ciprofloxacin.
Việc phối hợp kháng sinh điều trị nên chọn 2 kháng sinh thuộc 2 nhóm khác nhau. Ví dụ, sự kết hợp của ticarcillin và tobramycin là thích hợp, trong khi sự kết hợp của ceftazidime và imipenem là không hợp lý.
V. Kháng sinh điều trị cầu khuẩn Gram +
Vancomycin (2 g) nên được chỉ định đầu tiên cho bất kỳ trường hợp nghi ngờ nhiễm khuẩn nặng, bao gồm: viêm màng trong tim, viêm màng não…
Tuy nhiên, nếu xác định nhiễm MRSA, việc điều trị với vancomycin hoặc những thuốc thế hệ mới nên được tiếp tục cho đến khi kháng sinh đồ cho thấy MRSA vẫn còn nhạy với những kháng sinh này.
Những nhiễm khuẩn nhỏ với MRSA mắc phải cộng đồng, nên chỉ định những kháng sinh ức chế penicillinase (oxacillin, dicloxacillin), cephalosporins thế hệ thứ 1, trimethoprim/sulfamethoxazole (Sulfatrim 480mg), hoặc tetracyclines.
VI. Kháng sinh điều trị vi khuẩn Gram -
Vi khuẩn gram – có liên quan đến tỷ lệ lây lan và tử vong do có khả năng sản xuất nội độc tố.
Những trường hợp chỉ định điều trị nhiễm khuẩn đe dọa đến tính mạng ở người lớn, việc điều trị vi khuẩn gram – được đề nghị sử dụng phối hợp hai kháng sinh có tác dụng tốt trên vi khuẩn gram -.
VIII. Nhiễm khuẩn âm đạo và vùng chậu
Điều trị nhiễm Candida âm đạo với một liều duy nhất fluconazole PO 150 mg.
Nhiễm Trichomoniasis và vi khuẩn âm đạo có thể điều trị với một liều duy nhất metronidazole 2g
Cần phân biệt viêm vùng chậu và viêm cổ tử cung, mặc dù chủng vi khuẩn gây bệnh tương tự nhau. Đối với những bệnh nhân bị viêm vùng chậu ngoại trú không nên chỉ định một liều duy nhất một kháng sinh đường uống mà nên chỉ định ceftriaxone IM (Mekozincef 1g) + doxycycline 100mg trong 14 ngày.
Liệu pháp thay thế: azithromycin 2g liều duy nhất có thể điều trị viêm cổ tử cung do lậu cầu và chlamydia, tuy nhiên có thể có tác dụng phụ trên đường tiêu hóa khi sử dụng thuốc này.
IX. Lạm dụng tình dục
Tài liệu tham khảo:
Katherine M Hiller, MD, James Li, MD, Antibiotics - A Review of ED Use, Apr 14, 2010
Trong giai đoạn năm 2018-2021, Mạng lưới An toàn Chăm sóc Sức khỏe Quốc gia (NHSN) đã báo cáo rằng 0,4% (n = 1.951) các ca nhiễm trùng mắc phải tại bệnh viện (HAI) ở Hoa Kỳ nguyên nhân do Acinetobacter spp. gây ra. Trong số này có 28-45% không nhạy cảm với kháng sinh carbapenem (tức là trung gian hoặc đề kháng).
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCT), BLING III cung cấp bằng chứng việc sử dụng truyền liên tục (CI) so với truyền ngắt quãng piperacillin/tazobactam và meropenem trên bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Điều này được củng cố bởi một đánh giá tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp (SRMA) của 18 RCT về CI hoặc truyền kéo dài (EI) (thời gian từ 3–4 giờ) các kháng sinh beta-lactam. Thách thức hiện nay là chuyển đổi CI như một tiêu chuẩn chăm sóc cho bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Các cân nhắc chính bao gồm các vấn đề sau:
Các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Alabama tại Birmingham, đã tiến hành phân tích dữ liệu thứ cấp trên đối tượng phụ nữ tăng huyết áp mạn tính trong thai kỳ, so sánh với phương pháp điều trị chính. Tăng huyết áp mạn tính nhẹ trong nghiên cứu được định nghĩa là huyết áp 140-159/90-104 mmHg trước 20 tuần của thai kỳ.
Nhiễm trùng huyết – sepsis - vẫn là một trong những nguyên nhân gây tử vong lớn nhất trên thế giới, Tổ chức Y tế Thế giới ước tính 11 triệu người tử vong mỗi năm do tình trạng này. Các yếu tố chính của việc quản lý sepsis là chẩn đoán sớm, liệu pháp kháng sinh kinh nghiệm sớm và phù hợp, với biện pháp kiểm soát nguồn gây bệnh thích hợp và bảo tồn chức năng các cơ quan.
Sự ra đời của vắc-xin giúp chúng ta chủ động phòng chống các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Tổ chức y tế thế giới ước tính chương trình tiêm chủng hiện nay giúp ngăn ngừa 3,5-5 triệu ca tử vong mỗi năm do các bệnh như bạch hầu, uốn ván, ho gà, cúm và sởi [2].
Phòng ngừa suy nhược, mệt mỏi, đau nhức:
Hoạt động mỗi ngày đi bộ ngắn, tập các bài tập nhẹ nhàng. Giữ tinh thần ổn định
Chế độ ăn hợp lý trao đổi thêm với bác sĩ về dinh dưỡng bổ sung (thực phẩm giàu protein như thịt, cá, phô mai, sữa chua...). Uống nhiều nước, trừ khi có hướng dẫn khác.
Chườm khăn lạnh nếu có nhức mỏi, đau cơ.