Sử dụng kháng sinh liều duy nhất ngăn ngừa nhiễm khuẩn huyết và tử vong ở mẹ
DS. Trần Hoàng Yến Nhi
Khoa Dược (Dịch)
Kết quả của nghiên cứu, do Viện Y tế Quốc gia Hoa Kỳ (NIH) tài trợ, đề xuất một phương pháp tiềm năng để giảm tỷ lệ tử vong mẹ ở các nước có thu nhập thấp và trung bình.
Một cuộc thử nghiệm lâm sàng quy mô lớn ở nhiều quốc gia, do Viện Y tế Quốc gia Hoa Kỳ tài trợ, đã chỉ ra rằng sử dụng kháng sinh azithromycin uống một liều duy nhất có thể làm giảm 1/3 nguy cơ nhiễm khuẩn huyết sau sinh và tử vong ở những phụ nữ sinh thường. Chỉ 1,6% phụ nữ trong nghiên cứu dùng azithromycin khi chuyển dạ bị nhiễm khuẩn huyết hoặc tử vong trong vòng 6 tuần sau khi sinh, so với 2,4% ở những người dùng giả dược. Tuy nhiên, Azithromycin không làm giảm nguy cơ thai lưu, nhiễm khuẩn sơ sinh hoặc tử vong sơ sinh.
Với sự tham gia của hơn 29.000 phụ nữ ở bảy quốc gia có thu nhập thấp và trung bình, kết quả nghiên cứu đã được công bố trên Tạp chí Y học New England và trình bày tại một hội nghị y khoa ở San Francisco.
Bà Diana W. Bianchi, MD, giám đốc Viện Sức khỏe Trẻ em và Phát triển Con người (NICHD) - nhà tài trợ chính cho cuộc thử nghiệm, cho biết: “Những phát hiện này có khả năng thay đổi thực hành lâm sàng bằng cách cung cấp một phương pháp tiếp cận an toàn, hiệu quả và chi phí thấp để giảm gánh nặng toàn cầu về nhiễm khuẩn huyết và tử vong ở mẹ. Chúng ta rất cần những chiến lược hiệu quả để ngăn ngừa các bệnh nhiễm khuẩn liên quan đến thai kỳ, chiếm khoảng 10% số ca tử vong mẹ trên toàn thế giới.”
Nhiễm khuẩn huyết là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong cho bà mẹ và trẻ sơ sinh trên toàn thế giới, đặc biệt là ở các nước có thu nhập thấp và trung bình. Azithromycin, một loại kháng sinh rẻ tiền có hiệu quả kháng khuẩn cao, đã được biết đến vì khả năng điều trị nhiễm khuẩn cho người mẹ khi được tiêm tĩnh mạch trong quá trình sinh mổ. Hai nghiên cứu khác trước đó đã cho thấy việc sử dụng thuốc đường uống cho những phụ nữ dự định sinh thường có thể làm giảm nguy cơ nhiễm khuẩn và tử vong ở mẹ hoặc trẻ sơ sinh.
Ra mắt vào năm 2020, cuộc thử nghiệm mang tên A-PLUS đã có sự tham gia của những phụ nữ đang mang thai trên nhiều đất nước: Bangladesh, Cộng hòa Dân chủ Congo, Guatemala, Ấn Độ, Kenya, Pakistan và Zambia. Từ tháng 9 năm 2020 đến tháng 8 năm 2022, 29.278 người tham gia dự định sinh thường được chỉ định ngẫu nhiên để sử dụng azithromycin 2 gam uống liều duy nhất hoặc giả dược trong quá trình chuyển dạ.
.jpg)
Trong vòng sáu tuần đầu tiên sau khi sinh, 227 trong số 14.526 người tham gia (1,6%) dùng azithromycin bị nhiễm khuẩn huyết hoặc tử vong, so với 344 trong số 14.637 (2,4%) ở nhóm dùng giả dược. Tuy nhiên tỷ lệ tử vong mẹ rất hiếm ở cả hai nhóm. Nhiễm khuẩn huyết xảy ra ở 219 người tham gia nhóm azithromycin (1,5%) và 339 người ở nhóm giả dược (2,3%). Ngoài ra, những phụ nữ dùng azithromycin ít có khả năng bị viêm nội mạc tử cung (nhiễm khuẩn niêm mạc tử cung) và các bệnh nhiễm khuẩn khác. Họ cũng ít phải nhập viện trở lại và ít đi khám sức khỏe đột xuất hơn so với nhóm dùng giả dược.
Tiến sĩ Alan TN Tita, trường đại học Alabama ở Birmingham (UAB) cho biết: “Việc kết hợp cơ sở hạ tầng và chuyên môn của mạng lưới NICHD trên ba lục địa cho phép chúng tôi nhanh chóng thu thập những dữ liệu quan trọng này. Chúng tôi hy vọng rằng những phát hiện này sẽ được áp dụng để giúp cải thiện việc chăm sóc phụ nữ mang thai ở các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình trên toàn cầu.”
Thử nghiệm do Tiến sĩ Tita và Waldemar A. Carlo (UAB) đồng chủ trì. Tám tổ chức học thuật Hoa Kỳ và RTI International, Research Triangle Park, North Carolina, đóng vai trò là trung tâm điều phối dữ liệu cho Mạng lưới toàn cầu NICHD, hợp tác với tám đối tác quốc tế trên thử nghiệm A-PLUS.
Thai lưu, nhiễm khuẩn sơ sinh hoặc tử vong sơ sinh trong vòng bốn tuần đầu đời xảy ra với tần suất tương đương ở nhóm azithromycin và nhóm giả dược. Nhìn chung, những tác dụng phụ này xảy ra với 10,5% ca sinh ở nhóm azithromycin và 10,3% ở nhóm giả dược.
Thử nghiệm A-PLUS ban đầu được thiết kế để đăng ký tới 34.000 phụ nữ. Tuy nhiên, dựa trên đề xuất của ủy ban giám sát an toàn và dữ liệu độc lập của nghiên cứu sau khi phân tích dữ liệu tạm thời theo kế hoạch, nghiên cứu đã bị dừng sớm do lợi ích rõ ràng của azithromycin trong việc giảm nguy cơ nhiễm khuẩn huyết và tử vong ở mẹ.
Nguồn:
https://www.nih.gov/news-events/news-releases/single-dose-antibiotic-prevents-maternal-sepsis-death
(Ngày đăng 09/02/2023)
Probiotics được định nghĩa là “các vi sinh vật sống, khi được đưa vào cơ thể với số lượng đủ, sẽ mang lại lợi ích cho sức khỏe của vật chủ”. Các chủng vi khuẩn tạo axit lactic là quan trọng nhất trong thực phẩm và dinh dưỡng, chủng thuộc chi Lactobacillus và Bifidobacterium là những probiotic được sử dụng phổ biến nhất, ngoài ra còn kể đến các chi Bacillus, Streptococcus, Enterococcus, Saccharomyces và Escherichia coli
- Bệnh viện đã thực hiện 378 báo cáo ADR, giảm 7,9% so với năm 2023 (408 báo cáo), tăng 14,2% so với năm 2022 (331 báo cáo).
- Số lượng báo cáo ADR ngoại trú là 18 báo cáo, giảm 3,6 lần so với năm 2023 (66 báo cáo).
- Bệnh viện Từ Dũ được Trung tâm DI&ADR quốc gia xếp hạng 8/991 cơ sở khám chữa bệnh có hoạt động theo dõi ADR hiệu quả trong báo cáo tổng kết ADR quốc gia vào tháng 9/2024.
Mirvetuximab soravtansine-gynx đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt điều trị cho bệnh nhân trưởng thành mắc ung thư biểu mô buồng trứng, ống dẫn trứng, hoặc ung thư phúc mạc nguyên phát dương tính với thụ thể folat alpha (FRα), kháng hóa trị, là những bệnh nhân đã trải qua 3 liệu trình điều trị trước đó. Theo các chuyên gia, bệnh nhân mắc các loại ung thư này thường được phát hiện khi bệnh đã ở giai đoạn muộn, trải qua phẫu thuật và sau đó được điều trị bằng phác đồ hóa trị có platinum nhưng có thể trở nên kháng thuốc.
Kháng sinh (KS) phổ rộng được xem như “thần dược” để điều trị các bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng hoặc đe dọa tính mạng khi tác nhân gây bệnh chưa được xác định. Mục đích sử dụng KS phổ rộng nhằm bao phủ nhiều loại tác nhân vi khuẩn gram dương và gram âm, bao gồm cả các tác nhân kháng thuốc trong khi chờ kết quả nuôi cấy. Tuy nhiên, việc sử dụng bừa bãi các KS phổ rộng cũ và mới đã góp phần đáng kể vào sự gia tăng tình trạng kháng kháng sinh (AMR) – một vấn đề sức khỏe toàn cầu đáng lưu ý.
Những dữ kiện của một nghiên cứu tiền lâm sàng cho thấy: đái tháo đường thai kỳ (ĐTĐTK) có thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng và tử vong ở trẻ sơ sinh nguyên nhân do liên cầu khuẩn nhóm B (GBS). Có nhiều lý do như: thay đổi hệ vi sinh vật âm đạo, giảm đáp ứng miễn dịch và quá trình điều hoà thích nghi của vi khuẩn.
Tiền sản giật là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong mẹ. Bệnh lý tiền sản giật có liên quan đến sự xâm lấn tế bào nuôi nhau thai và sự tái cấu trúc động mạch xoắn tử cung. Với đặc tính kháng viêm, aspirin được giả thuyết rằng có thể cải thiện sự bám nhau giúp ngăn ngừa tiền sản giật. Vì vậy, spirin liều thấp được khuyến cáo sử dụng để dự phòng tiền sản giật trong thai kỳ. Mặt khác, aspirin cũng được chỉ định cho các trường hợp thai giới hạn tăng trưởng, sinh non, thai lưu.