Sử dụng kháng sinh sau mổ lấy thai giúp giảm nhiễm trùng ở phụ nữ béo phì
Ds Thân Thị Mỹ Linh (lược dịch)
Khoa Dược
Nghiên cứu mới được công bố ngày 27 tháng 1 năm 2017 cho thấy những phụ nữ béo phì nếu được chỉ định một liệu trình kháng sinh chi phí thấp sau khi mổ lấy thai thì tỷ lệ nhiễm trùng vết mổ giảm xuống 60%.
Các nhà điều tra ước tính nếu chiến lược sử dụng kháng sinh này được thực hiện khắp Hoa Kỳ, gần 46.000 trường hợp nhiễm trùng phẫu thuật và 5 trường hợp tử vong mẹ sẽ được ngăn chặn mỗi năm, tiết kiệm hơn 1 tỷ USD chi phí điều trị.
Các hướng dẫn hiện nay khuyến cáo nên dùng kháng sinh trước khi rạch da nhưng ở phụ nữ béo phì lượng thuốc trong máu thấp hơn. Và với lượng máu mất trong quá trình mổ lấy thai thì nồng độ kháng sinh trong máu sẽ càng thấp hơn, về cơ bản là sẽ hết 4 giờ sau phẫu thuật. Vào thời điểm 4 giờ sau phẫu thuật, vết thương chưa lành và vi khuẩn tiếp tục đi vào vết mổ và tử cung, đặc biệt ở phụ nữ bị vỡ màng ối.
Có khoảng 1,3 triệu ca mổ lấy thai ở phụ nữ béo phì hàng năm mặc dù béo phì làm giảm khoảng 30% đến 40% số trường hợp mang thai. Ước tính 3% - 13% tổng số ca sinh mổ có biến chứng là nhiễm trùng sau phẫu thuật và phụ nữ béo phì thì nguy cơ mắc các biến chứng này tăng từ 2 đến 5 lần.
Tại cuộc hội thảo Society for Maternal-Fetal Medicine hàng năm năm 2017, tiến sĩ Warshak, đại học Cincinnati đưa ra các kết quả từ một nghiên cứu đánh giá xem liệu một đợt kháng sinh kéo dài có thể làm giảm tỷ lệ nhiễm trùng vết mổ ở những phụ nữ có chỉ số khối cơ thể (BMI) từ 30 kg/m².
Trong thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên mù đôi có đối chứng, nhóm nghiên cứ gồm 192 phụ nữ được chỉ định cephalexin 500mg kết hợp với metronidazol 500mg uống mỗi 8 giờ trong 48 giờ và 190 phụ nữ thuộc nhóm chứng có sử dụng giả dược (placebo).
Tỷ lệ sử dụng thuốc lá cao ở cả nhóm sử dụng kháng sinh và nhóm chứng là 27% so với 30%, tỷ lệ bệnh tiểu đường trước sinh là 16% so với 19% và cao huyết áp mãn tính là 49% so với 51%. Tuổi thai lúc sinh trung bình là 37,5 tuần ở hai nhóm, tỉ lệ đa thai, mổ lấy thai lần đầu và tiền sản giật cũng tương tự nhau. Tất cả phụ nữ được chăm sóc ngoại khoa chuẩn và đa số đều trải qua các vết rạch Pfannenstiel ngang, có khâu vết thương.
Mục tiêu chính của nghiên cứu là xác định tỷ lệ nhiễm trùng vết mổ cơ tử cung hoặc vết mổ trên da. Kết cục khác bao gồm viêm tế bào, viêm nội mạc tử cung, sốt và vết thương hở. Tỷ lệ nhiễm trùng vết mổ tại chỗ ở nhóm sử dụng kháng sinh thấp hơn 63% so với nhóm dùng giả dược. Trong số 119 phụ nữ bị vỡ ối tỷ lệ này thấp hơn 77%, đối với 264 phụ nữ có màng ối còn nguyên vẹn tỷ lệ này thấp hơn 44%, mặc dù sự khác biệt không có ý nghĩa. Một phụ nữ được loại trừ khỏi phân tích không còn đáp ứng tiêu chí BMI.
Bảng 1. Tỷ lệ nhiễm trùng ở các trang phẫu thuật
Nhiễm trùng vết mổ |
Nhóm sử dụng kháng sinh |
Nhóm sử dụng giả dược |
Nguy cơ tương đối |
Tất cả thai phụ |
6,8 |
16,3 |
0,37 |
Thai phụ bị vỡ ối |
9,8 |
32,8 |
0,23 |
Thai phụ chưa bị vỡ ối |
5,3 |
9,2 |
0,56 |
Nhiễm trùng thường gặp ở phụ nữ có vỡ ối hơn so với những trường hợp ối chưa vỡ (21,3% so với 7,2%). Tổng số phụ nữ phải điều trị để ngừa nhiễm trùng là 10 thì trong số đó 4 trường hợp có ối vỡ. Kết cục khác biệt có ý nghĩa thống kê là giảm 60% viêm tế bào nhưng giảm nguy cơ viêm nội mạc tử cung và nhiễm trùng vết rạch da cũng gần có ý nghĩa.
Bảng 2. Các kết quả thứ cấp
Kết cục |
Nhóm sử dụng kháng sinh |
Nhóm sử dụng giả dược |
Nguy cơ tương đối |
Giá trị p |
Viêm tế bào |
6 |
14 |
0,40 |
.01 |
Viêm nội mạc tử cung |
1 |
4 |
0,24 |
.05 |
Vết thương hở |
10 |
16 |
0,57 |
.07 |
Ở phụ nữ có màng ối vỡ, nguy cơ mắc bệnh lý liên quan đến vết thương giảm xuống 59% ở nhóm dùng kháng sinh so với nhóm dùng giả dược (p = 0,04), nguy cơ viêm tế bào thấp hơn 74% (p = 0,01) và nguy cơ viêm nội mạc tử cung thấp hơn đáng kể là 77% (p = 0,05). Ở phụ nữ có màng ối còn nguyên vẹn, không có sự khác biệt nào có ý nghĩa.
Nghiên cứu này thực sự quan trọng bởi vì đây là nghiên cứu đầu tiên cụ thể về dân số béo phì và tìm ra các phương pháp để giảm nguy cơ nhiễm trùng. Nghiên cứu này chưa đủ mạnh để đánh giá hiệu quả của kháng sinh trong các phân nhóm và còn hạn chế vì dân số có nguy cơ cao đến từ một trung tâm duy nhất và phụ nữ bị nhiễm trùng ối đã được loại trừ khỏi phân tích.
Vi khuẩn có trong sữa mẹ giúp thiết lập hệ vi khuẩn lành mạnh trong ruột của bé, việc điều trị bằng kháng sinh có thể ảnh hưởng đến vi khuẩn trong sữa mẹ và có thể gây hậu quả đối với sức khoẻ trẻ sơ sinh. Vấn đề đề kháng kháng sinh cũng cân được quan tâm. Tuy nhiên nghiên cứu này hứa hẹn sẽ tạo một phương pháp điều trị bằng thuốc uống ít tốn kém sẽ làm giảm nguy cơ, đặc biệt đối với những phụ nữ có chỉ số BMI trên 30 kg/m², những người này có nguy cơ cao bị biến chứng liên quan đến vết thương. Các nhà nghiên cứu tiếp tục theo dõi và đánh giá tác động bất lợi của việc sử dụng kháng sinh trong vòng 48 giờ sau sinh trước khi đưa phác đồ này áp dụng vào thực tế.
Nguồn
http://www.medscape.com/viewarticle/875067
Sốt là triệu chứng phổ biến trong thực hành lâm sàng hàng ngày và một số lượng lớn người bệnh nhập viện do sốt. Nhiều người bệnh được dùng thuốc kháng sinh, thuốc kháng vi-rút, thuốc kháng nấm hoặc thuốc kháng ký sinh trùng, nếu coi nhiễm trùng là nguyên nhân chính. Tuy nhiên, thuốc được dùng để điều trị có thể là nguyên nhân tiềm ẩn gây sốt trong bối cảnh như vậy
Năm 2024, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) đã ban hành hướng dẫn về việc sử dụng doxycyclin dự phòng sau phơi nhiễm (doxy-PEP) để phòng ngừa bệnh nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục (STI). Dự phòng sau phơi nhiễm là một chiến lược hoá trị dự phòng, trong đó thuốc được dùng sau khi có khả năng phơi nhiễm để ngăn ngừa nhiễm trùng. Đây là một chiến lược phòng ngừa phổ biến và hiệu quả đối với HIV và các bệnh nhiễm trùng khác, chẳng hạn như bệnh dại và uốn ván. Doxycyclin là một kháng sinh nhóm tetracyclin phổ rộng dung nạp tốt và được khuyến cáo điều trị bệnh chlamydia và là phương pháp thay thế trong điều trị giang mai ở những bệnh nhân không có thai.
Việc bẻ, nghiền viên nén không bao, bao phim, bao đường hoặc mở viên nang giải phóng dược chất tức thì không làm thay đổi sinh khả dụng của thuốc và giúp bệnh nhân tuân thủ điều trị tốt hơn
Trẻ em không phải người lớn thu nhỏ. Các yếu tố dược động học ở trẻ sơ sinh thay đổi liên tục do sự phát triển nhanh về sinh lý. Tiêm tĩnh mạch thường được sử dụng trong điều trị cho trẻ sơ sinh, đặc biệt khi trẻ đang điều trị tại đơn vị chăm sóc tích cực. Khi tiêm tĩnh mạch, hiệu quả gần như tức thời. Hầu hết các loại thuốc tiêm tĩnh mạch cho trẻ sơ sinh có những yêu cầu riêng về độ pha loãng và/hoặc tốc độ truyền.
Trong giai đoạn năm 2018-2021, Mạng lưới An toàn Chăm sóc Sức khỏe Quốc gia (NHSN) đã báo cáo rằng 0,4% (n = 1.951) các ca nhiễm trùng mắc phải tại bệnh viện (HAI) ở Hoa Kỳ nguyên nhân do Acinetobacter spp. gây ra. Trong số này có 28-45% không nhạy cảm với kháng sinh carbapenem (tức là trung gian hoặc đề kháng).
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCT), BLING III cung cấp bằng chứng việc sử dụng truyền liên tục (CI) so với truyền ngắt quãng piperacillin/tazobactam và meropenem trên bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Điều này được củng cố bởi một đánh giá tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp (SRMA) của 18 RCT về CI hoặc truyền kéo dài (EI) (thời gian từ 3–4 giờ) các kháng sinh beta-lactam. Thách thức hiện nay là chuyển đổi CI như một tiêu chuẩn chăm sóc cho bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Các cân nhắc chính bao gồm các vấn đề sau: