Sử dụng levothyroxin cho phụ nữ mang thai suy giáp dưới lâm sàng
Ds Thân Thị Mỹ Linh (Dịch)
Khoa Dược
Suy giáp dưới lâm sàng là những bệnh nhân không có các triệu chứng lâm sàng rõ rệt, thường biểu hiện cận lâm sàng thấy nồng độ hormone giáp trong máu (FT3; FT4) trong giới hạn bình thường và nồng độ TSH tăng nhẹ.
Điều trị levothyroxin cho phụ nữ mang thai với suy giáp cận lâm sàng có thể giảm nguy cơ sinh con nhẹ cân và trẻ sơ sinh có điểm số Apgar thấp. Tuy nhiên, không có sự khác biệt về tình trạng sảy thai hoặc kết cục của mẹ và trẻ sơ sinh được tìm thấy trong nghiên cứu hồi cứu mới được công bố, nghiên cứu lớn nhất từ trước đến nay báo cáo kết cục những phụ nữ mang thai bị suy giáp dưới lâm sàng. Phát hiện này được công bố trên tạp chí Thyroid số ra tháng 07 năm 2016 của nhóm tác giả Spyridoula Maraka và cộng sự từ Mayo Clinic, Rochester, Minnesota.
Tỷ lệ phụ nữ mang thai có suy giáp dưới lâm sàng tại Hoa Kỳ là khoảng 15%. Tuy nhiên, bằng chứng về hiệu quả của levothyroxin trong dân số này là phức tạp. Một số nghiên cứu quan sát cho thấy có mối liên quan với tăng nguy cơ kết cục bất lợi cho thai kỳ ở phụ nữ mang thai có suy giáp dưới lâm sàng không được điều trị, trong khi các nghiên cứu khác cho thấy không có mối liên quan này. Đáng chú ý, một nghiên cứu tổng quan trên Cochrane công bố năm 2013 kết luận rằng không đủ dữ liệu để đưa ra khuyến cáo cho thực hành lâm sàng đối với levothyroxin trong dân số này (Cochrane Database Syst Rev. 2013; 5: CD007752).
Mặc dù không chắc chắn và thiếu bằng chứng của các thử nghiệm ngẫu nhiên hay can thiệp, hiệp hội tuyến giáp Mỹ (ATA) năm 2011 khuyến cáo điều trị levothyroxin cho phụ nữ có thai suy giáp dưới lâm sàng và vào năm 2012 hội nội tiết Mỹ khuyến cáo tương tự.
Khuyến cáo không sử dụng levothyroxin phổ biến
Nghiên cứu sử dụng hồ sơ y tế điện tử (EMRs) của 366 phụ nữ mang thai ở độ tuổi từ 18 đến 45 tuổi được theo dõi tại Mayo Clinic. Suy giáp dưới lâm sàng khi mang thai được định nghĩa là nồng độ hormone TSH huyết thanh > 2,5 mIU/L trong tam cá nguyệt đầu tiên hoặc > 3 mIU/L trong tam cá nguyệt thứ hai và thứ ba nhưng < 10 mIU/L. Phụ nữ mang thai được chia thành hai nhóm, nhóm được sử dụng levothyroxin (n = 82) và nhóm không sử dụng (n = 284).
Kết cục đánh giá bao gồm: nhau bong non, tiểu đường thai kỳ, tăng huyết áp thai kỳ, tiền sản giật, sản giật, ối vỡ non (PROM), sinh non và thai chậm tăng trưởng trong tử cung (IUGR). Trọng lượng sơ sinh thấp và chỉ số Apgar tại thời điểm 5 phút cũng được ghi nhận ở trẻ sơ sinh. Dữ liệu được đánh giá từ một khoảng thời gian trước và sau khi thay đổi khuyến cáo.
Nghiên cứu của tác giả Maraka và cộng sự là nghiên cứu lớn nhất từ trước đến nay báo cáo kết cục mang thai của phụ nữ suy giáp dưới lâm sàng được điều trị bằng levothyroxin so với những người không sử dụng thuốc. Điều này giúp theo dõi tác dụng phụ nhiều hơn để được xác định và chỉ ra sự khác biệt giữa 2 nhóm trong các kết quả nhất định. Ngoài ra, việc sử dụng EMRs cung cấp dữ liệu lâm sàng chi tiết, đầy đủ và theo dõi sát các đối tượng nhằm đánh giá kết quả toàn diện.
Các tác giả nhận thấy mối liên quan giữa liệu pháp levothyroxin và giảm nguy cơ sinh nhẹ cân (1,3% ở nhóm điều trị so với 10% ở nhóm không điều trị; p <0,001) và điểm số Apgar thấp (0% ở nhóm điều trị so với 7 % ở nhóm không điều trị; p <0,001).
Tuy nhiên, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê trong sẩy thai (6,1% ở nhóm điều trị so với 8.8% ở nhóm không điều trị; p = 0,12) hoặc trong kết cục của mẹ và trẻ sơ sinh được tìm thấy.
Mặc dù có một sự gia tăng gấp đôi số lượng phụ nữ mang thai được điều trị suy giáp dưới lâm sàng thay thế bằng levothyroxin sau khi các hướng dẫn cập nhật của hiệp hội tuyến giáp và hội nội tiết Mỹ ban hành, các khuyến cáo này không được thực hiện rộng rãi. Điều này có liên quan một phần đến sự thiếu hụt dữ liệu mạnh mẽ hỗ trợ cho các khuyến cáo này.
Sử dụng levothyroxin nên được thảo luận với phụ nữ mang thai
Cuối cùng, cho đến khi có thêm nhiều bằng chứng, kết quả hiện đang ủng hộ lựa chọn điều trị levothyroxin mà không xác định bất kỳ bằng chứng về tác dụng có hại của thuốc. Tuy nhiên, khả năng quá liều trong thai kỳ vẫn không thể loại trừ.
Các bác sĩ và phụ nữ mang thai bị suy giáp dưới lâm sàng cần phải có một cuộc thảo luận thẳng thắn về những lợi ích của liệu pháp levothyroxin trong khi cân nhắc gánh nặng điều trị (ví dụ: sử dụng thuốc hàng ngày, kiểm tra và thăm khám y tế thường xuyên) và tùy thuộc vào sự lựa chọn của người phụ nữ.
Nghiên cứu cũng nhấn mạnh, các hiệp hội đề cập trong nghiên cứu này phải có kết quả từ các thử nghiệm ngẫu nhiên trước khi xem xét sử dụng rộng rãi trong điều trị levothyroxin ở phụ nữ mang thai bị suy giáp dưới lâm sàng.
Các tác giả nghiên cứu tuyên bố không có mối quan hệ tài chính có liên quan.
Tài liệu tham khảo
http://www.medscape.com/viewarticle/867251
Việc bẻ, nghiền viên nén không bao, bao phim, bao đường hoặc mở viên nang giải phóng dược chất tức thì không làm thay đổi sinh khả dụng của thuốc và giúp bệnh nhân tuân thủ điều trị tốt hơn
Trẻ em không phải người lớn thu nhỏ. Các yếu tố dược động học ở trẻ sơ sinh thay đổi liên tục do sự phát triển nhanh về sinh lý. Tiêm tĩnh mạch thường được sử dụng trong điều trị cho trẻ sơ sinh, đặc biệt khi trẻ đang điều trị tại đơn vị chăm sóc tích cực. Khi tiêm tĩnh mạch, hiệu quả gần như tức thời. Hầu hết các loại thuốc tiêm tĩnh mạch cho trẻ sơ sinh có những yêu cầu riêng về độ pha loãng và/hoặc tốc độ truyền.
Trong giai đoạn năm 2018-2021, Mạng lưới An toàn Chăm sóc Sức khỏe Quốc gia (NHSN) đã báo cáo rằng 0,4% (n = 1.951) các ca nhiễm trùng mắc phải tại bệnh viện (HAI) ở Hoa Kỳ nguyên nhân do Acinetobacter spp. gây ra. Trong số này có 28-45% không nhạy cảm với kháng sinh carbapenem (tức là trung gian hoặc đề kháng).
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCT), BLING III cung cấp bằng chứng việc sử dụng truyền liên tục (CI) so với truyền ngắt quãng piperacillin/tazobactam và meropenem trên bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Điều này được củng cố bởi một đánh giá tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp (SRMA) của 18 RCT về CI hoặc truyền kéo dài (EI) (thời gian từ 3–4 giờ) các kháng sinh beta-lactam. Thách thức hiện nay là chuyển đổi CI như một tiêu chuẩn chăm sóc cho bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Các cân nhắc chính bao gồm các vấn đề sau:
Các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Alabama tại Birmingham, đã tiến hành phân tích dữ liệu thứ cấp trên đối tượng phụ nữ tăng huyết áp mạn tính trong thai kỳ, so sánh với phương pháp điều trị chính. Tăng huyết áp mạn tính nhẹ trong nghiên cứu được định nghĩa là huyết áp 140-159/90-104 mmHg trước 20 tuần của thai kỳ.
Nội dung chi tiết vui lòng xem file đính kèm