Sử dụng Magie sulfat trong bảo vệ thần kinh thai nhi
Ds. Huỳnh Thị Hồng Gấm
Khoa Dược - BV. Từ Dũ
Bại não là một nhóm rối loạn không phát triển về vận động kèm theo hoặc không kèm theo suy giảm nhận thức, là một biến chứng tiềm năng tàn phá của sinh non. Tỷ lệ bại não tỷ lệ nghịch với tuổi thai lúc sinh, có tới 15% trẻ sinh ra trước 27 tuần thai bị ảnh hưởng, trái ngược với tỷ lệ bại não 0,1% ở trẻ sinh đủ tháng.
Các nghiên cứu đã xác định được việc sử dụng Magie sulfat trước sinh như là một chiến lược hiệu quả trong việc giảm tỷ lệ bại não.
Bằng phương pháp xem xét tất cả các thử nghiệm lâm sàng đánh giá việc sử dụng Magne sulfat trong việc ngăn ngừa bại não đã được xuất bản. Phân tích gộp, bao gồm tổng quan hệ thống Cochrane và ngoài Cochrane đã được xem xét. Ngoài ra, các Hướng dẫn quốc tế được xuất bản của Australia, Canada, Hoa Kỳ và một bài báo quan điểm khoa học từ Đại học Hoàng gia về sản phụ khoa đã được đánh giá.
Trường đại học Hoàng gia về sản phụ khoa của Ai-len đã đưa ra các khuyến cáo chính về việc sử dụng Magne sulfat trước sinh trong việc bảo vệ thần kinh thai nhi như sau:
1.Dữ liệu từ nhiều thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng lớn và một phân tích gộp Cochrane đã đưa ra bằng chứng về tác dụng có lợi của Magie sulfat trong việc giảm nguy cơ bại não ở trẻ sinh non. Vì vậy, sử dụng Magne sulfat nên được xem xét trong tất cả các trường hợp đã có kế hoạch hoặc dự kiến sinh non.
2.Sử dụng Magne sulfat nên được xem xét cho tất cả bệnh nhân có nguy cơ sắp sinh non trước 32 tuần thai. Tuy nhiên, trong trường hợp nguồn lực hạn chế, bảo đảm rằng thai phụ sinh ở tuần thai 28 hoặc ít hơn là rất quan trọng, khi mà lợi ích lớn nhất của việc sử dụng Magne sulfat trước sinh đã được chứng minh.
3.Việc sử dụng Magne sulfat bằng liều tấn công, sau đó sử dụng đường truyền đã cho thấy lợi ích tối ưu. Chế độ liều khuyến cáo là liều tấn công 4g, sau đó tiếp tục truyền 1g/ giờ cho đến khi sinh theo tình huống xảy ra sớm hơn hoặc trong vòng 24 giờ.
4. Trong trường hợp nguồn lực hạn chế để theo dõi mẹ, hoặc hạn chế thời gian, việc chỉ sử dụng liều tấn công 4g được xem là hợp lí, không kèm theo truyền sau đó.
5. Bắt đầu sử dụng Magne sulfat khoảng 4 giờ trước khi sinh. Nếu không thể đạt được một khoảng thời gian 4 giờ trước sinh, Magne sulfat vẫn nên sử dụng, vì có khả năng có một số lợi ích sẽ được thấy khi sử dụng Magne sulfat trong thời gian này.
6. Hiện tại không có đủ bằng chứng để hướng dẫn việc lặp lại liều Magne sulfat ở những thai phụ chưa sinh hoặc đã ngừng sử dụng Magne sulfat. Việc lặp lại liều Magne sulfat là xem xét hợp lí trong các trường hợp sắp sinh non nếu đã ngừng sử dụng Magne sulfat 24 giờ.
7. Do tiềm ần các tác dụng bất lợi trên cả mẹ và thai nhi, phải giám sát chặt chẽ khi sử dụng Magne sulfat.
Tài liệu tham khảo
Antenatal magnesium sulphate for fetal neuroprotection. Clinical practice guideline. Institute of Obstetricians and Gynaecologists, Royal College of Physicians of Ireland and Directorate of Strategy and Clinical Care Health Service Executive. 2013.
Probiotics được định nghĩa là “các vi sinh vật sống, khi được đưa vào cơ thể với số lượng đủ, sẽ mang lại lợi ích cho sức khỏe của vật chủ”. Các chủng vi khuẩn tạo axit lactic là quan trọng nhất trong thực phẩm và dinh dưỡng, chủng thuộc chi Lactobacillus và Bifidobacterium là những probiotic được sử dụng phổ biến nhất, ngoài ra còn kể đến các chi Bacillus, Streptococcus, Enterococcus, Saccharomyces và Escherichia coli
- Bệnh viện đã thực hiện 378 báo cáo ADR, giảm 7,9% so với năm 2023 (408 báo cáo), tăng 14,2% so với năm 2022 (331 báo cáo).
- Số lượng báo cáo ADR ngoại trú là 18 báo cáo, giảm 3,6 lần so với năm 2023 (66 báo cáo).
- Bệnh viện Từ Dũ được Trung tâm DI&ADR quốc gia xếp hạng 8/991 cơ sở khám chữa bệnh có hoạt động theo dõi ADR hiệu quả trong báo cáo tổng kết ADR quốc gia vào tháng 9/2024.
Mirvetuximab soravtansine-gynx đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt điều trị cho bệnh nhân trưởng thành mắc ung thư biểu mô buồng trứng, ống dẫn trứng, hoặc ung thư phúc mạc nguyên phát dương tính với thụ thể folat alpha (FRα), kháng hóa trị, là những bệnh nhân đã trải qua 3 liệu trình điều trị trước đó. Theo các chuyên gia, bệnh nhân mắc các loại ung thư này thường được phát hiện khi bệnh đã ở giai đoạn muộn, trải qua phẫu thuật và sau đó được điều trị bằng phác đồ hóa trị có platinum nhưng có thể trở nên kháng thuốc.
Kháng sinh (KS) phổ rộng được xem như “thần dược” để điều trị các bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng hoặc đe dọa tính mạng khi tác nhân gây bệnh chưa được xác định. Mục đích sử dụng KS phổ rộng nhằm bao phủ nhiều loại tác nhân vi khuẩn gram dương và gram âm, bao gồm cả các tác nhân kháng thuốc trong khi chờ kết quả nuôi cấy. Tuy nhiên, việc sử dụng bừa bãi các KS phổ rộng cũ và mới đã góp phần đáng kể vào sự gia tăng tình trạng kháng kháng sinh (AMR) – một vấn đề sức khỏe toàn cầu đáng lưu ý.
Những dữ kiện của một nghiên cứu tiền lâm sàng cho thấy: đái tháo đường thai kỳ (ĐTĐTK) có thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng và tử vong ở trẻ sơ sinh nguyên nhân do liên cầu khuẩn nhóm B (GBS). Có nhiều lý do như: thay đổi hệ vi sinh vật âm đạo, giảm đáp ứng miễn dịch và quá trình điều hoà thích nghi của vi khuẩn.
Tiền sản giật là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong mẹ. Bệnh lý tiền sản giật có liên quan đến sự xâm lấn tế bào nuôi nhau thai và sự tái cấu trúc động mạch xoắn tử cung. Với đặc tính kháng viêm, aspirin được giả thuyết rằng có thể cải thiện sự bám nhau giúp ngăn ngừa tiền sản giật. Vì vậy, spirin liều thấp được khuyến cáo sử dụng để dự phòng tiền sản giật trong thai kỳ. Mặt khác, aspirin cũng được chỉ định cho các trường hợp thai giới hạn tăng trưởng, sinh non, thai lưu.