Sử dụng một số kháng sinh trong thời kỳ mang thai có thể tăng nguy cơ sẩy thai
Ds Thân Thị Mỹ Linh (lược dịch)
Khoa Dược
Báo cáo của một nghiên cứu mới cho thấy rằng việc sử dụng một số kháng sinh trong thời kỳ mang thai có thể làm tăng nguy cơ sẩy thai tự phát.
Nghiên cứu của Flory T. Muanda và các cộng sự đăng trên tạp chí CMAJ ngày 1 tháng 5 năm 2017, macrolides (trừ erythromycin), quinolones, tetracyclines, sulfonamides và metronidazole tất cả đều có nguy cơ gây sảy thai cao hơn so với việc sử dụng penicillin, cephalosporin hoặc không sử dụng kháng sinh. Theo các tác giả, những phát hiện này nên được xem xét khi cập nhật hướng dẫn về điều trị nhiễm trùng trong thai kỳ.
Nghiên cứu đoàn hệ lớn
Để đánh giá tác động tiềm ẩn của thuốc kháng sinh đối với nguy cơ sẩy thai, tiến sĩ Muanda, đại học Montréal, Quebec, Canada và các đồng nghiệp đã phân tích dữ liệu từ dân số nghiên cứu ở Quebec là những phụ nữ mang thai từ tháng 1 năm 1998 đến tháng 12 năm 2009.
Bệnh nhân đủ điều kiện có độ tuổi từ 15 đến 45 tuổi vào ngày đầu tiên của thai kỳ và liên tục được theo dõi ít nhất 1 năm trước và trong thời gian mang thai. Phụ nữ với tình trạng lâm sàng phát hiện sẩy thai tự phát trước tuần thai thứ 20 được đưa vào nhóm bệnh. Đối với mỗi trường hợp, các tác giả bắt cặp với 10 phụ nữ mang thai thuộc nhóm chứng theo tuổi, năm mang thai và ngày mang thai trong vòng 3 ngày.
Việc tiếp xúc với kháng sinh được định nghĩa là "đã có ít nhất 1 đơn thuốc kê bất kỳ loại kháng sinh nào kể từ ngày đầu tiên của thai kỳ hoặc trước khi mang thai nhưng có thời gian trùng lắp với ngày đầu tiên của thai nghén.
Nghiên cứu bao gồm các nhóm kháng sinh cephalosporins, macrolides, penicillins, quinolones, sulfonamid, tetracyclines, các chất kháng khuẩn khác, kháng đơn bào (antiprozozoals) và các thuốc kháng nhiễm trùng tiểu.
Có 182.369 trường hợp mang thai đạt được các tiêu chuẩn thu nhận; trong đó, 8.702 (4,7%) sẩy thai tự phát ở tuổi thai trung bình là 14,1 tuần (SD; 3,1 tuần - 14 tuần). Nhóm chứng có bắt cặp gồm 87.020 trường hợp mang thai.
Phơi nhiễm kháng sinh xảy ra ở 12.446 (13%) trong số những trường hợp mang thai, trong đó 1.428 đã sẩy tự phát (chiếm 16,4% số phụ nữ mang thai bị sẩy thai tự phát). Trong nhóm đối chứng, 11.018 (chiếm 12,6% số phụ nữ mang thai trong nhóm chứng) có tiếp xúc với kháng sinh (P < 0,001 so với nhóm nghiên cứu).
Phụ nữ sẩy thai tự phát có tuổi trung bình là 28,7 tuổi (SD, ± 6,3 năm) so với phụ nữ trong nhóm chứng, có độ tuổi trung bình là 27,8 tuổi (SD, ± 5,5 năm , P <.001). Họ cũng có nhiều khả năng chẩn đoán bị mắc các bệnh như trầm cảm và hen suyễn, có đến bệnh viện hoặc khoa cấp cứu trong năm trước khi mang thai và báo cáo chung tình hình sử dụng thuốc.
Các nhà nghiên cứu đã phân tích một danh sách các biến số, bao gồm các yếu tố liên quan đến tình trạng kinh tế xã hội, bệnh tật và nhân khẩu học.
Phát hiện
Sau khi điều chỉnh các yếu tố gây nhiễu, nguy cơ gia tăng sẩy thai tự phát đặc hiệu liên quan đến kháng sinh so với không dùng kháng sinh được thể hiện trong bảng. Không có nguy cơ gia tăng sẩy thai tự phát có liên quan với nitrofurantoin, erythromycin, penicillins hoặc cephalosporins.
Bảng 1. Rủi ro liên quan đến kháng sinh
Kháng sinh |
Số trường hợp phơi nhiễm |
Tỷ số số chênh (khoảng tin cậy 95%) |
Azithromycin |
110 |
1,65 (1,34 - 2,02) |
Clarithromycin |
111 |
2,35 (1,90 - 2,91) |
Tetracyclines |
67 |
2,59 (1,97 - 3,41) |
Doxycycline |
36 |
2,81 (1,93 - 4,10) |
Minocycline |
21 |
2,48 (1,54 - 4,00) |
Quinolones |
160 |
2,72 (2,27 - 3,27) |
Ciprofloxacin |
114 |
2,45 (1,98 - 3,03) |
Norfloxacin |
8 |
4,81 (2,05 - 11,26) |
Levofloxacin |
14 |
3,28 (1,73 - 6,24) |
Sulfonamid |
30 |
2,01 (1,36 - 2,97) |
Metronidazole |
53 |
1,70 (1,27 - 2,26) |
Để xác định các nguy cơ tiềm ẩn liên quan đến nhiễm trùng, các tác giả đã lặp lại phân tích sử dụng penicillin và cephalosporin, những thuốc có nhiều dữ liệu an toàn nhất giống như nhóm tham khảo. Các kết quả nghiên cứu vẫn không thay đổi.
Họ cũng tiến hành hai phân tích nhóm nhỏ bao gồm những phụ nữ mang thai bị nhiễm trùng đường tiểu hoặc nhiễm trùng đường hô hấp. Trong nhóm nhiễm trùng đường tiểu, tỷ số số chênh điều chỉnh liên quan với việc sử dụng quinolone so với sử dụng penicillin là 8,73 (khoảng tin cậy 95% CI; 3,08 - 24,77; 17 trường hợp phơi nhiễm)
Trong nhóm nhiễm khuẩn đường hô hấp, sử dụng macrolid có xu hướng làm tăng nguy cơ sẩy thai tự nhiên so với penicillin, nhưng không có ý nghĩa thống kê (tỉ số số chênh điều chỉnh là 1,89, 95% CI, 0,97-3,69; 17 trường hợp phơi nhiễm). Các tác giả không quan sát thấy nguy cơ sẩy thai tự nhiên liên quan đến tiếp xúc với nitrofurantoin, phát hiện này hỗ trợ việc sử dụng nó như là một giải pháp thay thế cho trimethoprim-sulfamethoxazole trong điều trị nhiễm trùng đường tiểu trong thai kỳ.
Từ đó, các nhà nghiên cứu khuyến cáo không sử dụng các loại thuốc tetracyclines và quinolones trong giai đoạn đầu của thai kỳ. Kết luận của họ cũng cho thấy metronidazol có thể làm tăng 70% nguy cơ sẩy thai tự phát cũng tương tự như nghiên cứu trên các bệnh nhân Medicaid cho thấy nguy cơ tăng lên 67%.
Tài liệu tham khảo
1. http://www.medscape.com/viewarticle/879313
2. http://www.cmaj.ca/content/189/17/E625.full
- Bệnh viện đã thực hiện 378 báo cáo ADR, giảm 7,9% so với năm 2023 (408 báo cáo), tăng 14,2% so với năm 2022 (331 báo cáo).
- Số lượng báo cáo ADR ngoại trú là 18 báo cáo, giảm 3,6 lần so với năm 2023 (66 báo cáo).
- Bệnh viện Từ Dũ được Trung tâm DI&ADR quốc gia xếp hạng 8/991 cơ sở khám chữa bệnh có hoạt động theo dõi ADR hiệu quả trong báo cáo tổng kết ADR quốc gia vào tháng 9/2024.
Mirvetuximab soravtansine-gynx đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt điều trị cho bệnh nhân trưởng thành mắc ung thư biểu mô buồng trứng, ống dẫn trứng, hoặc ung thư phúc mạc nguyên phát dương tính với thụ thể folat alpha (FRα), kháng hóa trị, là những bệnh nhân đã trải qua 3 liệu trình điều trị trước đó. Theo các chuyên gia, bệnh nhân mắc các loại ung thư này thường được phát hiện khi bệnh đã ở giai đoạn muộn, trải qua phẫu thuật và sau đó được điều trị bằng phác đồ hóa trị có platinum nhưng có thể trở nên kháng thuốc.
Kháng sinh (KS) phổ rộng được xem như “thần dược” để điều trị các bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng hoặc đe dọa tính mạng khi tác nhân gây bệnh chưa được xác định. Mục đích sử dụng KS phổ rộng nhằm bao phủ nhiều loại tác nhân vi khuẩn gram dương và gram âm, bao gồm cả các tác nhân kháng thuốc trong khi chờ kết quả nuôi cấy. Tuy nhiên, việc sử dụng bừa bãi các KS phổ rộng cũ và mới đã góp phần đáng kể vào sự gia tăng tình trạng kháng kháng sinh (AMR) – một vấn đề sức khỏe toàn cầu đáng lưu ý.
Những dữ kiện của một nghiên cứu tiền lâm sàng cho thấy: đái tháo đường thai kỳ (ĐTĐTK) có thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng và tử vong ở trẻ sơ sinh nguyên nhân do liên cầu khuẩn nhóm B (GBS). Có nhiều lý do như: thay đổi hệ vi sinh vật âm đạo, giảm đáp ứng miễn dịch và quá trình điều hoà thích nghi của vi khuẩn.
Tiền sản giật là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong mẹ. Bệnh lý tiền sản giật có liên quan đến sự xâm lấn tế bào nuôi nhau thai và sự tái cấu trúc động mạch xoắn tử cung. Với đặc tính kháng viêm, aspirin được giả thuyết rằng có thể cải thiện sự bám nhau giúp ngăn ngừa tiền sản giật. Vì vậy, spirin liều thấp được khuyến cáo sử dụng để dự phòng tiền sản giật trong thai kỳ. Mặt khác, aspirin cũng được chỉ định cho các trường hợp thai giới hạn tăng trưởng, sinh non, thai lưu.
Sốt là triệu chứng phổ biến trong thực hành lâm sàng hàng ngày và một số lượng lớn người bệnh nhập viện do sốt. Nhiều người bệnh được dùng thuốc kháng sinh, thuốc kháng vi-rút, thuốc kháng nấm hoặc thuốc kháng ký sinh trùng, nếu coi nhiễm trùng là nguyên nhân chính. Tuy nhiên, thuốc được dùng để điều trị có thể là nguyên nhân tiềm ẩn gây sốt trong bối cảnh như vậy