Sử dụng opioids làm tăng nguy cơ nhiễm trùng nặng
Ds Thân Thị Mỹ Linh (lược dịch)
Khoa Dược
Theo một nghiên cứu công bố ngày 13 tháng 2 năm 2018 trên tạp chí Annals of Internal Medicine của Wiese và các đồng nghiệp, các thuốc opioid, đặc biệt là opioid tác dụng kéo dài hoặc liều cao, có thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng nặng bao gồm viêm phổi xâm lấn, viêm màng não và nhiễm trùng huyết.
Các nghiên cứu trên động vật cho thấy một số thuốc opioid có tác dụng ức chế miễn dịch. Thuốc ảnh hưởng đến quá trình sản xuất tế bào miễn dịch tiêu diệt vi khuẩn, giảm đáp ứng miễn dịch bẩm sinh, ức chế sự sản sinh ra các kháng thể và cytokine.
Các nghiên cứu trước đây trên người cho thấy các thuốc opioid làm tăng nguy cơ nhiễm trùng ở bệnh nhân nằm viện sau khi phẫu thuật, trong quá trình điều trị bỏng hoặc điều trị ung thư. Các nghiên cứu khác cho thấy nguy cơ gia tăng tình trạng nhiễm trùng nghiêm trọng ở một số bệnh nhân ngoại trú có nguy cơ cao.
Hiện nay, nghiên cứu mới này của Andrew Wiese và cộng sự, trung tâm Y khoa đại học Vanderbilt, Nashville, Tennessee đã củng cố bằng chứng cho thấy những tác dụng ức chế miễn dịch của opioids đối với con người.
Nghiên cứu đã phát hiện ra rằng có sự liên quan mạnh mẽ giữa việc sử dụng opioid và nguy cơ mắc bệnh viêm phổi xâm lấn, đặc biệt là các trường hợp sử dụng opioid tác dụng kéo dài và hiệu lực cao.
Nghiên cứu phân tích mối liên quan giữa việc kê đơn thuốc opioid cho các bệnh nhân ở Tennessee với các trường hợp được xác định bị viêm phổi xâm lấn (IPD – invasive pneumococcal disease). Nhóm bệnh gồm 1233 bệnh nhân từ 5 tuổi trở lên bị IPD và 24.399 bệnh nhân nhóm chứng. Ở nhóm bệnh nhân bị IPD tỷ lệ sử dụng opioid cao hơn so với bệnh nhân ở nhóm chứng (aOR, 1.62; 95% CI, 1.36-1.92). sự liên quan này còn mạnh mẽ hơn nếu sử dụng opioids kéo dài (aOR; 1,87, 95% CI; 1,24 – 2,82), hiệu lực cao (aOR; 1,72, 95% CI, 1,32 – 2,25) và liều cao (aOR, 1,71-1,75, tùy thuộc vào khoảng liều).
Một hạn chế của nghiên cứu là nó không đánh giá chính xác được việc sử dụng opioid thực tế của bệnh nhân mà chỉ dựa vào đơn thuốc. Bệnh nhân bị IPD được chủng ngừa bằng văcxin polysaccharide phế cầu khuẩn cao hơn so với nhóm chứng, điều này có thể thấy nguy cơ của opioid thực sự cao hơn.
Một nghiên cứu khác đăng ngày 20 tháng 3 năm 2017 cho kết quả rằng các bệnh nhân được kê toa fentanyl, morphin hoặc codein trong vòng 100 ngày trước khi nhập viện có nguy cơ cao bị viêm phổi khi nhập viện. Opioids là nhóm chất đã được chứng minh có tác dụng ức chế hô hấp nhưng các nhà nghiên cứu suy đoán mối quan hệ có lẽ do sự ức chế miễn dịch chứ không phải do suy hô hấp.
Nghiên cứu này của Andrea Rubinstein, Permanente Medical Group, Santa Rosa, California và được báo cáo tại hội nghị thường niên của Armerican Academy of Pain Medicine – AAPM năm 2017.
Nghiên cứu khảo sát tỷ lệ viêm phổi mắc phải bệnh viện (hospital-acquired pneumonia – HAP) được thực hiện trên 40.403 trường hợp bệnh nhân từ 18 đến 70 tuổi nhập viện vào hệ thống y tế Kaiser Permanente trong thời gian khoảng 4 năm (hệ thống Kaiser bao gồm 19 bệnh viện ở bắc California, tại thời điểm nghiên cứu đã có 3,9 triệu bệnh nhân). Các nhà nghiên cứu đã xem xét việc sử dụng các loại opioid trong 100 ngày (ít nhất là 60 ngày) trước khi nhập viện. Họ nhóm bệnh nhân vào 3 nhóm: nhóm không sử dụng opioids; nhóm fentanyl, codein, morphin và nhóm sử dụng các opioid khác (bao gồm hydrocodon, oxycodon hoặc hydromorphon). Họ cũng xem xét các trường hợp được kê toa một loại opioid trong 2 ngày đầu tiên ở trong bệnh viện, những bệnh nhân không có chỉ định opioid ngoại trú nhưng được chỉ định fentanyl hoặc morphin vào ngày thứ nhất hoặc ngày thứ 2 nhập viện được đưa vào nhóm fentanyl, codein, morphin.
HAP thường xuất hiện sau ngày thứ 3 nằm viện, nếu chẩn đoán bệnh sớm hơn thường là viêm phổi trong cộng đồng. Điều trị HAP rất tốn kém, gây tăng chi phí nhập viện và tỷ lệ tử vong cao, đặc biệt ở những người có nguy cơ cao (người suy giảm miễn dịch hoặc những người sức đề kháng kém).
Kết quả nghiện cứu cho thấy trong số hơn 40.000 bệnh nhân, có 242 ca HAP (0,60%), và tỷ lệ khác nhau tùy thuộc loại thuốc opioid được kê toa. Trong số 20.399 bệnh nhân được kê đơn fentanyl, codein hoặc morphin, tỷ lệ này là 0,79%, nhưng đối với 20.004 người không được kê đơn fentanyl, codein hoặc morphin, tỷ lệ này là 0,39%.
Nguyên nhân bị HAP có phải do tác dụng ức chế hô hấp của các opioid hay không, nhóm nghiên cứu đã tiến hành xem xét các bệnh nhân bị viêm phổi sau khi đặt nội khí quản (những người này không bị ức chế hô hấp vì đang thở máy). Kết quả cũng tương tự, ở những bệnh nhân sử dụng fentanyl, codein hoặc morphin có nguy cơ bị viêm phổi cao hơn.
Để chứng minh thêm rằng nguyên nhân do ức chế miễn dịch, các nhà nghiên cứu đã khảo sát một nhiễm trùng hoàn toàn khác (nhiễm trùng do Clostridium difficile). Trong số những người nhập viện, có 2.936 bệnh nhân đã dùng kháng sinh từ 10 ngày trở lên trước khi nhập viện. Trong nhóm này, có 16 trường hợp nhiễm C. difficile với tỷ lệ là 0,54%. Các nhà nghiên cứu nhận thấy tỷ lệ những bệnh nhân đã sử dụng opioids trong 100 ngày trước khi nhập viện gần gấp bốn lần (1,04%) so với những người không có tiếp xúc opioid kéo dài trong thời gian này (0,27%).
Việc kê đơn opioid phải thận trọng và theo dõi chặt chẽ tất cả các bệnh nhân, đặc biệt là những người có nguy cơ cao bị nhiễm trùng, những người sức đề kháng kém. Trước khi kê toa opioid, bác sĩ lâm sàng cần cân nhắc lựa chọn các phương pháp giảm đau khác.
Nguồn
- https://www.medscape.com/viewarticle/892586
- https://www.medscape.com/viewarticle/877433
Kháng sinh chiếm gần 80% tổng số đơn thuốc được kê trong thời kỳ mang thai, và khoảng 20%–25% phụ nữ sẽ sử dụng kháng sinh trong thai kỳ. Các bệnh nhiễm trùng phổ biến nhất bao gồm nhiễm trùng đường tiết niệu (UTIs), nhiễm trùng đường sinh dục, nhiễm trùng da - mô mềm và nhiễm trùng đường hô hấp. Việc sử dụng kháng sinh trong thai kỳ luôn cần được cân nhắc giữa nguy cơ và lợi ích.
Lạc nội mạc tử cung là bệnh lý viêm mạn tính phụ thuộc estrogen, ảnh hưởng khoảng 10% phụ nữ trong độ tuổi sinh sản.
Bệnh đặc trưng bởi sự hiện diện của mô nội mạc tử cung ngoài buồng tử cung, gây đau bụng kinh, đau khi giao hợp, đau vùng chậu kéo dài và vô sinh, làm giảm đáng kể chất lượng cuộc sống.
Điều trị cần được cá thể hóa, tùy theo mức độ triệu chứng, vị trí tổn thương và nhu cầu sinh sản. Hướng dẫn hiện nay khuyến nghị kết hợp giữa điều trị nội khoa, ngoại khoa và hỗ trợ không dùng thuốc.
Phản ứng có hại của thuốc (ADR) là vấn đề thường gặp trong thực hành lâm sàng và có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ, tính mạng người bệnh nếu không được nhận biết sớm và xử trí kịp thời.
Acetaminophen (paracetamol) đã được sử dụng để hạ sốt và giảm đau từ nhẹ đến trung bình. Thuốc có sẵn ở dạng đơn chất hoặc kết hợp với các thuốc khác để điều trị các triệu chứng cảm lạnh, cúm, đau đầu và viêm xương khớp. Tên thương mại phổ biến là Tylenol. Theo Tạp chí Wall Street Journal đưa tin, Bộ trưởng Y tế Hoa Kỳ dự định thông tin về mối liên quan giữa chứng tự kỷ và việc phơi nhiễm với thuốc giảm đau và hạ sốt Tylenol trước khi sinh, như sau:
Tiêm chủng cho mẹ giúp bảo vệ cả mẹ và thai nhi khỏi một số bệnh nhiễm trùng. Lý tưởng nhất là tiêm chủng trước khi thụ thai, nhưng trong một số trường hợp, việc tiêm chủng trong thai kỳ cũng được chỉ định.
Nhiều bằng chứng cho thấy rằng, việc sử dụng kháng sinh ở bệnh nhân tiên lượng nặng bị suy thận cấp (STC) thường không đạt được mục tiêu dược lực học và tỉ lệ tử vong cao liên quan đến nhiễm trùng. Do đó, bài viết này đánh giá những thay đổi thông số về dược động học và dược lực học trên bệnh nhân nặng có STC và đề xuất những giải pháp để có thể tối ưu liều dùng kháng sinh trên những bệnh nhân này.



