Sử dụng oxytocin không kèm misoprostol tốt cho phòng ngừa băng huyết sau sinh
Ds Thân Thị Mỹ Linh (Dịch)
Khoa Dược
Sử dụng thêm misoprostol cùng với oxytocin ngay sau sinh không giúp ngăn ngừa băng huyết sau sinh mà có thể làm tăng nguy cơ gặp phải các tác dụng phụ hơn so với chỉ sử dụng oxytocin, đây là một công bố của một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên. Thử nghiệm đã bị tạm dừng sớm vì những phát hiện này.
Những phát hiện của nghiên cứu này không hỗ trợ cho việc sử dụng misoprostol kèm với oxytocin trong phòng ngừa băng huyết sau sinh. Mặc dù misoprostol dễ cung ứng, dễ sử dụng và hiệu quả cho những chỉ định khác khi mang thai, oxytocin vẫn là lựa chọn chính để dự phòng băng huyết sau sinh ở các nước phát triển. Theo công bố của Ths. Thibaud Quibel và cộng sự, khoa sản phụ khoa, Bệnh viện Poissy-Saint Germain, Pháp được báo cáo trực tuyến ngày 08 tháng 09 năm 2016 trên tạp chí Obstetrics & Gynecology.
Một nghiên cứu khác cho thấy hai loại thuốc trên có thể có tác dụng hiệp đồng. “Chúng tôi đưa ra giả thuyết rằng sự kết hợp của oxytocin và misoprostol so với chỉ sử dụng oxytocin trong giai đoạn ba của chuyển dạ sẽ giảm tỷ lệ băng huyết sau sinh”, các nhà nghiên cứu giải thích.
Nghiên cứu bao gồm phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ (từ 18 tuổi) được dự đoán sẽ sinh con theo ngã âm đạo, những người trong giai đoạn đầu chuyển dạ, người ở 36 - 42 tuần của thai kỳ, được gây tê ngoài màng cứng và đồng ý tham gia nghiên cứu. Nghiên cứu loại trừ những phụ nữ: đa thai, tiền sử dị ứng với prostaglandins, mổ lấy thai hoặc tham gia một thử nghiệm lâm sàng khác.
Các nhà nghiên cứu phân ngẫu nhiên những phụ nữ ở giai đoạn đầu của chuyển dạ theo tỷ lệ 1:1 để sử dụng 400 mcg misoprostol hoặc giả dược ngay sau sinh. Những người phụ nữ này cũng sẽ được chỉ định 10 IU oxytocin tiêm tĩnh mạch để dự phòng vào giai đoạn ba của chuyển dạ. Theo dõi lượng máu mất bắt đầu ngay sau khi bắt em bé ra và trước khi xổ nhau. Việc theo dõi lượng máu mất diễn ra liên tục và kéo dài ít nhất 2 giờ sau sinh.
Các đặc điểm cơ bản là giống nhau ở hai nhóm phụ nữ, cũng như trọng lượng của trẻ sơ sinh. Không có khác biệt đáng kể về mục tiêu chính của nghiên cứu, tỷ lệ lượng máu mất trên 500 ml trong vòng 2 giờ sau là 8,4% (68/806) ở nhóm sử dụng misoprostol so với 8,3% (66/797) ở nhóm giả dược (p = 0,98). Tỷ lệ băng huyết sau sinh nặng (lượng máu mất sau sinh > 1.000 ml trong vòng 2 giờ sau sinh) cũng tương tự là 1,8% và 2,4% tương ứng (p = 0,57).
Tuy nhiên, các tác dụng phụ bất lợi cho mẹ thường gặp hơn ở những phụ nữ được chỉ định sử dụng misoprostol cụ thể là: sốt 30,4% so với 6,3% ở nhóm dùng giả dược p <0.001; run: 10,8% so với 0,6% P <0,001; buồn nôn 2,7% so với 1,0%; nôn 2,2% so với 0,8% và tiêu chảy 0,7% so với 0%.
Mặc dù misoprostol tiện lợi khi thiết lập các dịch vụ y tế cho những cơ sở y tế nghèo nhưng không nên thường xuyên sử dụng nó các cơ sở y tế có điều kiện hơn đặc biệt là kết hợp với oxytocin. Đồng thời việc sử dụng misoprostol gây ra rất nhiều và tác dụng phụ thường gặp cho người mẹ.
Các tác giả đã tiết lộ không có mối quan hệ quan hệ tài chính liên quan.
Tài liệu tham khảo
http://www.medscape.com/viewarticle/868601
Độc tính trên thận do thuốc là nguyên nhân phổ biến gây ra tổn thương thận cấp tính (AKI) và kháng sinh (KS) là một trong những nhóm thuốc lớn nhất liên quan đến AKI. Cơ chế gây độc tính trên thận do KS bao gồm tổn thương cầu thận, tổn thương hoặc rối loạn chức năng ống thận, tắc nghẽn ống lượn xa do trụ niệu và viêm thận kẽ cấp tính (AIN) do phản ứng quá mẫn loại IV (loại chậm). Các biểu hiện lâm sàng của độc tính trên thận do KS bao gồm hoại tử ống thận cấp (ATN), AIN và hội chứng Fanconi.
Trong 6 tháng đầu năm 2025, Bệnh viện Từ Dũ ghi nhận 204 báo cáo ADR, tăng 1,3 lần so với cùng kỳ năm 2024 (160 báo cáo).
Việc sử dụng hệ thống phóng thích Levonorgestrel trong tử cung (LNG-IUS: Levonorgestrel-releasing intrauterine system) có liên quan đến tăng nguy cơ ung thư vú. Một nghiên cứu ở Đan Mạch ghi nhận 14 trường hợp ung thư vú trên 10.000 phụ nữ tránh thai bằng LNG-IUS so với phụ nữ tránh thai không dùng nội tiết.
Theo kết quả của một nghiên cứu trên JAMA Network Open, tiêm vắc-xin cúm không liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc các kết quả bất lợi trong thời kỳ chu sinh đối với những người mang thai liên tiếp. Các tác giả nghiên cứu cho biết những phát hiện này ủng hộ các khuyến nghị hiện tại cho những người mang thai hoặc những người có thể mang thai trong mùa cúm.
Staphylococcus aureus, một loại vi khuẩn gram dương, là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do nhiễm trùng huyết trên toàn thế giới, với tỷ lệ tử vong từ 15% đến 30% và ước tính có 300.000 ca tử vong mỗi năm.
Các loài thuộc chi Candida là một phần của hệ vi sinh vật thường trú trong âm đạo có khoảng 25% ở phụ nữ, do vậy việc phát hiện nấm không đủ để chẩn đoán bệnh. Ước tính có 75% phụ nữ bị nhiễm nấm candida âm đạo ít nhất một lần trong đời. Nồng độ estrogen và tăng sản xuất glycogen ở âm đạo, tình trạng này xảy ra thường gặp và nghiêm trọng hơn trong thai kỳ. Trong thời kỳ mang thai, bệnh có liên quan đến những kết quả bất lợi trong sản khoa như vỡ ối sớm, chuyển dạ sớm, viêm màng ối, nhiễm nấm candida da ở trẻ sơ sinh và nhiễm trùng hậu sản 1. Bệnh viêm âm hộ-âm đạo do nấm candida là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất có triệu chứng gây ngứa và tiết dịch âm đạo. Biểu hiện của bệnh là tình trạng viêm thường gặp ở các loài nấm Candida với các triệu chứng là ngứa và viêm đỏ.