Sử dụng progesterone có giúp làm giảm nguy cơ sẩy thai hay không?
Khoa Dược - BV Từ Dũ
Một bài báo cáo tổng quan được đăng trên thư viện Cochrane năm 2009 với tựa đề “Progesterone for preventing miscarriage” là phân tích gộp của 15 nghiên cứu trên 2118 phụ nữ bất kể số lần mang thai và số lần sẩy thai trước đó, cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về nguy cơ sẩy thai giữa nhóm sử dụng progestogen và nhóm sử dụng giả dược hoặc các nhóm không điều trị (OR 0,98; 95% CI 0,78 - 1,24) và sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ tác dụng phụ bất lợi cho mẹ hoặc cho em bé.
Trong một phân tích phân nhóm của ba nghiên cứu liên quan đến phụ nữ bị sẩy thai tái phát (3 lần hoặc nhiều hơn 3 lần sẩy thai liên tiếp), điều trị bằng progestogen làm giảm có ý nghĩa thống kê tỉ lệ sẩy thai so với giả dược hoặc không điều trị (OR 0,38; 95% CI 0,20-0,70). Không có khác biệt có ý nghĩa thống kê các đường sử dụng progestogen (uống, tiêm bắp, đặt âm đạo) so với giả dược hoặc không điều trị.
Kết luận đưa ra rằng không có bằng chứng để hỗ trợ việc sử dụng progestogen thường quy trong phòng ngừa sẩy thai từ giai đoạn sớm đến giữa thai kỳ. Tuy nhiên, progesterone có bằng chứng về lợi ích ở phụ nữ có tiền sử sẩy thai tái phát. Sử dụng progesterone cho những phụ nữ này có thể làm giảm tỷ lệ sẩy thai trong nhóm điều trị và cho rằng không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm điều trị và nhóm đối chứng về tỷ lệ các tác dụng phụ cho mẹ hoặc cho em bé.
Tuy nhiên, một báo cáo có tựa đề “Progestogen for treating threatened miscarriage” đăng trên Pubmed năm 2011 là kết quả phân tích meta của 4 nghiên cứu (421 người tham gia) lại cho rằng có bằng chứng của việc giảm tỷ lệ sẩy thai tự nhiên với việc sử dụng của progestogens so với sử dụng giả dược hoặc không điều trị (RR 0,53; 95% CI 0,35-0,79). Không tăng tỷ lệ xuất huyết trước sanh (RR 0,76; 95% CI 0,30 - 1,94), hoặc tăng huyết áp thai kỳ (RR 1,00, 95% CI 0,54 - 1,88) cho mẹ. Tỷ lệ dị tật bẩm sinh không khác nhau giữa các trẻ sơ sinh của các bà mẹ sử dụng progestogen và những người không sử dụng (RR 0,70, 95% CI 0,10-4,82).
Các dữ liệu từ tổng quan này cho rằng việc sử dụng của progestogens có hiệu quả trong điều trị dọa sẩy thai, không có bằng chứng về tỷ lệ tăng huyết áp thai kỳ hoặc xuất huyết trước sanh là những tác dụng có hại cho mẹ, cũng không tăng sự xuất hiện của các bất thường bẩm sinh trẻ sơ sinh. Tuy nhiên, phân tích bị giới hạn bởi số lượng nhỏ và phương pháp nghiên cứu kém chất lượng (bốn nghiên cứu) và cỡ mẫu nhỏ.
Thông tin kê toa của biệt dược Utrogestan (progesterone dạng vi hạt)
Khuyến cáo của nhà sản xuất chỉ sử dụng progesterone trong các trường hợp dọa sẩy thai sớm hoặc dự phòng sẩy thai liên tiếp do suy hoàng thể.
Trong các trường hợp sẩy thai sớm tự phát do biến chứng di truyền (hơn 50% trường hợp), các hiện tượng nhiễm trùng hoặc các rối loạn cơ học thì progesterone chỉ có tác dụng làm chậm thải trứng chết.
Phải ngưng điều trị progesterone trong các trường hợp sau:
- Rối loạn mắt như mất thị lực, nhìn đôi, tổn thương mạch máu võng mạc
- Tắc mạch huyết khối hoặc nghẽn mạch
- Đau đầu nặng
Tài liệu tham khảo
- http://onlinelibrary.wiley.com/doi/10.1002/14651858.CD003511.pub2/abstract
- http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/22161393
- Thông tin kê toa Utrogestan 100mg, 200mg.
- Dược thư quốc gia Việt Nam 2011
Tiêm chủng cho mẹ giúp bảo vệ cả mẹ và thai nhi khỏi một số bệnh nhiễm trùng. Lý tưởng nhất là tiêm chủng trước khi thụ thai, nhưng trong một số trường hợp, việc tiêm chủng trong thai kỳ cũng được chỉ định.
Nhiều bằng chứng cho thấy rằng, việc sử dụng kháng sinh ở bệnh nhân tiên lượng nặng bị suy thận cấp (STC) thường không đạt được mục tiêu dược lực học và tỉ lệ tử vong cao liên quan đến nhiễm trùng. Do đó, bài viết này đánh giá những thay đổi thông số về dược động học và dược lực học trên bệnh nhân nặng có STC và đề xuất những giải pháp để có thể tối ưu liều dùng kháng sinh trên những bệnh nhân này.
Trong bản dự thảo cuối cùng, Viện Y tế và Chất lượng Điều trị Quốc gia Anh (NICE) cho biết relugolix-estradiol-norethisterone là một lựa chọn để điều trị các triệu chứng lạc nội mạc tử cung ở những người phụ nữ trưởng thành đang trong độ tuổi sinh sản, nhưng không đáp ứng với phương pháp điều trị nội khoa hoặc phẫu thuật trước đó.
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), có khoảng 10% bệnh nhân tại Mỹ được báo cáo bị dị ứng penicillin. Tuy nhiên, dưới 1% bị dị ứng qua trung gian IgE (loại 1) và các nhà nghiên cứu lưu ý rằng, khoảng 80% bệnh nhân này sẽ mất độ nhạy cảm sau 10 năm. Hơn nữa, CDC khuyến nghị cần xác định những bệnh nhân không thực sự dị ứng penicillin để giảm việc sử dụng kháng sinh phổ rộng không cần thiết. Phản ứng chéo giữa penicillin và cephalosporinlà rất hiếm, nhưng nhiều bác sĩ tránh kê đơn cephalosporin cho bệnh nhân bị dị ứng penicillin, dẫn đến tăng cường sử dụng các loại kháng sinh khác như là quinolon, macrolid, clindamycin, carbapenem và vancomycin, thường gặp nhiều tác dụng phụ hơn, tăng chi phí chăm sóc sức khỏe và góp phần vào tình trạng đề kháng kháng sinh
Độc tính trên thận do thuốc là nguyên nhân phổ biến gây ra tổn thương thận cấp tính (AKI) và kháng sinh (KS) là một trong những nhóm thuốc lớn nhất liên quan đến AKI. Cơ chế gây độc tính trên thận do KS bao gồm tổn thương cầu thận, tổn thương hoặc rối loạn chức năng ống thận, tắc nghẽn ống lượn xa do trụ niệu và viêm thận kẽ cấp tính (AIN) do phản ứng quá mẫn loại IV (loại chậm). Các biểu hiện lâm sàng của độc tính trên thận do KS bao gồm hoại tử ống thận cấp (ATN), AIN và hội chứng Fanconi.
Trong 6 tháng đầu năm 2025, Bệnh viện Từ Dũ ghi nhận 204 báo cáo ADR, tăng 1,3 lần so với cùng kỳ năm 2024 (160 báo cáo).