Sử dụng thuốc điều trị cao huyết áp trong thời kỳ mang thai và cho con bú
Ds. Đặng Thị Thuận Thảo
Khoa Dược – BV Từ Dũ
Tổng quan
Quyết định điều trị cao huyết áp trong thời kỳ mang thai phụ thuộc vào rủi ro và lợi ích trên người mẹ và thai nhi.
Điều trị bệnh cao huyết áp thể nhẹ đến trung bình trong khi mang thai có thể không làm giảm nguy cơ trên người mẹ hoặc thai nhi. Tuy nhiên đối với cao huyết áp nặng trong thời kỳ mang thai cần được điều trị để giảm nguy cơ trên người mẹ.
Methyldopa và thuốc đối kháng receptor β adrenergic đã được sử dụng rộng rãi.
Trong cao huyết áp nặng cấp tính, chỉ định labetalol tiêm tĩnh mạch hoặc nifedipine đường uống là sự lựa chọn hợp lý.
Cao huyết áp động mạch chiếm khoảng 6% đến 8% trường hợp cao huyết áp trong thời kỳ mang thai và là một trong những yếu tố gây nguy cơ trên người mẹ, bào thai và trẻ sơ sinh (theo trường Đại học sản phụ khoa của Mỹ 1996).
- Có cao huyết áp mãn tính trước khi mang thai;
- Có tiền sản giật và sản giật, protein niệu (> 300 mg/24h) và có những biểu hiện khác (co giật hoặc hôn mê trong trường hợp sản giật);
- Tiền sản giật sau tăng huyết áp mạn tính;
- Có cao huyết áp trong thời kỳ mang thai hoặc cao huyết áp không có protein niệu và áp lực động mạch trở lại bình thường sau khi sinh 12 tuần ( Lenfant 2001).
Bởi vì khả năng gây quái thai và các tác dụng phụ bất lợi khác trên bào thai hoặc trẻ sơ sinh, thuốc kê toa cho phụ nữ mang thai đã được chia thành các mức độ khác nhau và đã có nhiều tranh luận quanh việc phân loại này.
FDA đã phân loại thuốc chỉ định trong thời kỳ mang thai thành năm loại A, B, C, D, và X (bảng 1) (FDA 2001). Phân loại này được cho là mơ hồ, đôi khi do sự đơn giản hóa đã phản ánh sự thiếu thông tin hơn là phản ánh những tác dụng gây hại của thuốc đã được kiểm chứng thực tế.
Do tình trạng khó xử về mặt đạo đức khi thử nghiệm điều trị trên nhóm người dễ bị tổn thương như phụ nữ mang thai nên một số lượng lớn dữ liệu có sẵn về nguy cơ của thuốc trong thời kỳ mang thai đã được bắt nguồn từ phân tích mẫu người thử nghiệm và sau đó đưa đến xu hướng lựa chọn, thu hồi, cũng như xu hướng thay đổi phương pháp điều trị.
Do tỷ lệ tử vong chu sinh hoặc sử dụng thuốc giả dược đã không còn thực tế hay đạo đức trong hầu hết các thử nghiệm thuốc hạ huyết áp trong thời kỳ mang thai, nên nhân viên y tế có thể tự trang bị dữ liệu liên quan đến những thuốc đã có kinh nghiệm sử dụng an toàn hơn so với những thuốc mới.
Có nhiều yếu tố quan trọng trong việc xác định các giai đoạn tăng huyết áp trong thời kỳ mang thai như sử dụng chỉ số huyết áp tâm trương phản ánh áp lực động mạch trong thiết kế của mỗi nghiên cứu. Phần lớn, tăng huyết áp nhẹ đến vừa phải trong khi mang thai được định nghĩa là huyết áp tâm thu 140-169 mmHg hoặc huyết áp tâm trương 90-109 mmHg còn tăng huyết áp nặng được định nghĩa là huyết áp tâm thu là 160-170 mmHg hoặc huyết áp tâm trương hơn 110 mmHg. (Abalos et al 2007).
Mặc dù điều trị bằng thuốc hạ huyết áp cho bệnh cao huyết áp nhẹ đến vừa phải trong khi mang thai có thể làm giảm nguy cơ dẫn đến cao huyết áp nặng, nhưng không làm giảm tỷ lệ mắc tiền sản giật và cũng không ảnh hưởng đến những hậu quả trên bà mẹ hoặc trẻ trong thời kỳ chu sinh (Abalos et al 2007).
Tránh điều trị bằng thuốc là biện pháp được đề nghị trong điều trị cao huyết áp nhẹ và có thể thay thế bằng các biện pháp dược lý hoặc còn thiếu thông tin về lợi ích khi điều trị ngắn hạn (bảng 2). Bởi vì không có biện pháp can thiệp nào đã được chứng minh làm giảm nguy cơ phát triển của tiền sản giật, quá trình chuyển dạ thai nhi và nhau thai (Longo et al 2003).
Việc điều trị cao huyết áp mãn tính nên được ngừng lại trong khi mang thai nhưng phải có sự theo dõi chặt chẽ, hay cách khác, một người phụ nữ có áp lực động mạch đã được kiểm soát tốt bởi thuốc hạ huyết áp trước khi mang thai có thể tiếp tục sử dụng thuốc (nếu thuốc không bị chống chỉ định).
Viện Y tế quốc gia về bệnh huyết áp trong thời kỳ mang thai khuyên nên sử dụng thuốc hạ huyết áp trong những trường hợp huyết áp tâm thu vượt quá ngưỡng của 150-160 mmHg hoặc huyết áp tâm trương khoảng 100-110 mmHg hoặc có sự phá hủy cơ quan đích như dày tâm thất trái hoặc suy thận (Lenfant 2001).
Bảng 1: Phân loại các thuốc hạ huyết áp dùng để điều trị cao huyết áp
trong thời kỳ mang thai
PHÂN LOẠI |
CƠ SỞ PHÂN LOẠI |
A |
Những nghiên cứu kiểm soát tốt và đầy đủ ở phụ nữ mang thai không thấy có gia tăng nguy cơ bất thường của thai nhi. |
B |
Nghiên cứu động vật cho thấy không có bằng chứng về tác hại cho thai nhi. Tuy nhiên, không có những nghiên cứu được kiểm soát tốt và đầy đủ ở phụ nữ mang thai hoặc nghiên cứu động vật đã cho thấy một tác dụng phụ bất lợi, nhưng các nghiên cứu được kiểm soát tốt và đầy đủ ở phụ nữ mang thai không cho thấy một nguy cơ nào trên thai nhi.
|
C |
Nghiên cứu động vật đã cho thấy một tác dụng phụ bất lợi và không có những nghiên cứu được kiểm soát tốt và đầy đủ ở phụ nữ mang thai hoặc không có những cuộc nghiên cứu trên động vật được tiến hành và không có những nghiên cứu được kiểm soát tốt và đầy đủ ở phụ nữ mang thai. |
D |
Những nghiên cứu đầy đủ được kiểm soát tốt hoặc được quan sát ở phụ nữ mang thai cho thấy có một nguy cơ cho thai nhi.
Tuy nhiên, lợi ích của việc điều trị có thể lớn hơn những nguy cơ tiềm năng. |
X |
Những nghiên cứu đầy đủ được kiểm soát tốt hoặc được quan sát ở phụ nữ mang thai cho thấy có bằng chứng rõ ràng bất thường thai nhi.
Việc sử dụng của thuốc này là chống chỉ định ở phụ nữ có thai hoặc đang chuẩn bị có thai |
Bệnh học
Sự tăng thể tích huyết tương ở người mẹ dẫn đến giảm nồng độ albumin huyết tương và protein liên hợp một số loại thuốc giảm và thể tích phân phối của một số loại thuốc thay đổi.
Do sự tăng cung lượng tim trong thời kỳ mang thai dẫn đến tăng 50% lưu lượng máu qua thận, tỷ lệ lọc cầu thận, và clearance creatinin dẫn đến tăng song song clearance các loại thuốc bài tiết qua thận.
Sự vận chuyển qua nhau thai những thuốc có trọng lượng phân tử thấp, tan trong lipid là hiệu quả hơn so với việc vận chuyển chậm những thuốc tan trong nước và điều này có thể hạn chế sự phơi nhiễm của bào thai với một số loại thuốc nhất định.
Sau đó, nồng độ thuốc ở bào thai dần dần cân bằng với vòng tuần hoàn người mẹ. Những thay đổi về động lực của mạch máu sẽ trở lại bình thường trong giai đoạn sau sinh (Morgan 1997).
Trong thời kỳ mang thai, Clearance của người mẹ tăng do tăng lưu lượng máu cũng sẽ bị thay đổi bởi enzym chuyển hóa thuốc do estrogen và progesterone có thể làm giảm tác dụng enzyme cytochrome P450 và ức chế những enzym khác (Loebstein et al. 1997).
Trong hầu hết các trường hợp, việc vận chuyển thuốc qua bào thai là không thể tránh khỏi. Ảnh hưởng gây quái thai của thuốc trên thai nhi chủ yếu là do phơi nhiễm với thuốc trong 3 tháng đầu thai kỳ, trong khi những phơi nhiễm sau đó sẽ không ảnh hưởng đến sự dị tật bẩm sinh, nhưng có thể gây khiếm khuyết chức năng (Shehata và Nelson-Piercy 2000).
Loại bỏ thuốc dần dần khỏi bào thai chủ yếu được kiểm soát bằng cách loại bỏ thuốc từ người mẹ có nghĩa là giảm nồng độ thuốc từ từ để thuốc từ bào thai khuyến tán qua nhau trở lại vòng tuần hoàn của người mẹ.
Dược động học của thuốc trên bào thai khác ở chỗ là khả năng của gan thai nhi chuyển hóa các loại thuốc ít hơn so với người lớn.
Ngoài ra, thận của thai nhi có khả năng lọc thấp, lưu lượng máu qua thận của thai nhi chỉ bằng 3% cung lượng tim so với 25% ở người lớn, và ống thận không lọc được anion. Hơn nữa, những thuốc bài tiết qua thận sẽ vào nước ối và tái hấp thu do cử động nuốt của thai nhi. (Morgan 1997)
* Nội dung chi tiết bài viết vui lòng bạn tải file .pdf.
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCT), BLING III cung cấp bằng chứng việc sử dụng truyền liên tục (CI) so với truyền ngắt quãng piperacillin/tazobactam và meropenem trên bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Điều này được củng cố bởi một đánh giá tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp (SRMA) của 18 RCT về CI hoặc truyền kéo dài (EI) (thời gian từ 3–4 giờ) các kháng sinh beta-lactam. Thách thức hiện nay là chuyển đổi CI như một tiêu chuẩn chăm sóc cho bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Các cân nhắc chính bao gồm các vấn đề sau:
Các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Alabama tại Birmingham, đã tiến hành phân tích dữ liệu thứ cấp trên đối tượng phụ nữ tăng huyết áp mạn tính trong thai kỳ, so sánh với phương pháp điều trị chính. Tăng huyết áp mạn tính nhẹ trong nghiên cứu được định nghĩa là huyết áp 140-159/90-104 mmHg trước 20 tuần của thai kỳ.
Nhiễm trùng huyết – sepsis - vẫn là một trong những nguyên nhân gây tử vong lớn nhất trên thế giới, Tổ chức Y tế Thế giới ước tính 11 triệu người tử vong mỗi năm do tình trạng này. Các yếu tố chính của việc quản lý sepsis là chẩn đoán sớm, liệu pháp kháng sinh kinh nghiệm sớm và phù hợp, với biện pháp kiểm soát nguồn gây bệnh thích hợp và bảo tồn chức năng các cơ quan.
Sự ra đời của vắc-xin giúp chúng ta chủ động phòng chống các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Tổ chức y tế thế giới ước tính chương trình tiêm chủng hiện nay giúp ngăn ngừa 3,5-5 triệu ca tử vong mỗi năm do các bệnh như bạch hầu, uốn ván, ho gà, cúm và sởi [2].
Phòng ngừa suy nhược, mệt mỏi, đau nhức:
Hoạt động mỗi ngày đi bộ ngắn, tập các bài tập nhẹ nhàng. Giữ tinh thần ổn định
Chế độ ăn hợp lý trao đổi thêm với bác sĩ về dinh dưỡng bổ sung (thực phẩm giàu protein như thịt, cá, phô mai, sữa chua...). Uống nhiều nước, trừ khi có hướng dẫn khác.
Chườm khăn lạnh nếu có nhức mỏi, đau cơ.