Sử dụng thuốc giảm đau trong thời kỳ mang thai và cho con bú
Phòng Dược Lâm Sàng, Thông Tin Thuốc – Khoa Dược, BV Từ Dũ
Tổng quan
Đau trong thời kỳ mang thai và cho con bú có thể được điều trị. Các thuốc giảm đau thường được sử dụng gồm aspirin, paracetamol và dẫn chất opioid với liều thích hợp không liên quan với tỷ lệ khiếm khuyết bào thai. Không nên sử dụng thuốc chống viêm không steroid trong 3 tháng cuối của thai kỳ. Những cơn đau trong thời kỳ mang thai nếu không được điều trị có thể ảnh hưởng đến người mẹ và thai kỳ, chính vì vậy những phụ nữ có những cơn đau dai dẳng nên được điều trị trước khi mang thai.
Đau trong thời kỳ mang thai có thể là do chấn thương hoặc nhiễm trùng, hoặc thứ phát do viêm khớp dạng thấp. Đau liên quan đến việc mang thai cũng có thể xảy ra.
Nếu không điều trị, đau dai dẳng có thể dẫn đến trầm cảm và lo âu và có thể ảnh hưởng đến thể chất và tâm lý của một người phụ nữ, làm ảnh hưởng xấu đến thai kỳ.
Phụ nữ không nên chịu đựng những cơn đau trong thời kỳ mang thai và cho con bú. Nếu biết cách sử dụng với liều thích hợp, những thuốc giảm đau thông thường như paracetamol, aspirin chống viêm không steroid (NSAIDs) và dẫn chất opioid tương đối an toàn trong thời kỳ mang thai và cho con bú.
Ở những phụ nữ được tư vấn về sử dụng bất kỳ thuốc nào trong thời kỳ mang thai, nên được nhấn mạnh rằng sẽ có khoảng 3% nguy cơ em bé có dị tật bẩm sinh và khoảng 15% nguy cơ sẩy thai. Hơn 85% phụ nữ sử dụng một số thuốc trong thời kỳ mang thai và hơn 50% phụ nữ sử dụng thuốc giảm đau trong thời kỳ mang thai. Thuốc giảm đau được sử dụng phổ biến trong thời kỳ mang thai chỉ sau nhóm thuốc vitamin
Các nguy cơ khi sử dụng thuốc trong thời kỳ mang thai cần được cân nhắc những rủi ro tiềm năng của việc điều trị so với không điều trị đau trong thời kỳ mang thai và cho con bú.
Paracetamol
Paracetamol là thuốc giảm đau và hạ sốt được sử dụng rộng rãi nhất, đặc biệt trong thời kỳ mang thai. Mặc dù nó dễ dàng qua được nhau thai ở dạng không liên kết, tuy nhiên ở liều điều trị không làm tăng nguy cơ dị tật bẩm sinh hoặc gây ảnh hưởng đến bào thai.
Paracetamol được sử dụng khá rộng rãi nhưng cho đến nay vẫn chưa có những nghiên cứu được kiểm chứng về việc sử dụng của thuốc này trong thời kỳ mang thai.
Một nghiên cứu đã được đăng ký của Đan Mạch với mẫu là 26 424 trẻ em đã bị phơi nhiễm với paracetamol trong tử cung trong ba tháng đầu không tăng tỷ lệ của dị tật bẩm sinh so với nhóm trẻ không bị phơi nhiễm
Aspirin
Aspirin được sử dụng để điều trị đau và sốt nhẹ.
Aspirin liều thấp phối hợp với với heparin được chỉ định trong trường hợp sẩy thai tái phát ở thai phụ có kháng thể kháng phospholipid.
Aspirin, không liên quan với tăng nguy cơ dị tật bẩm sinh, mặc dù có một phân tích meta có chỉ ra sự liên quan giữa việc sử dụng aspirin trong 3 tháng đầu thai kỳ và nguy cơ bị hở thành bụng ở trẻ sơ sinh
NSAIDS (Thuốc giảm đau/kháng viêm không chứa Steroid)
NSAID như ibuprofen, naproxen, indomethacin và diclofenac được sử dụng rộng rãi để điều trị đau nhẹ đến trung bình và sốt. Đây là những chất ức chế cyclo-oxygenase. Đối với thai nhi và trẻ sơ sinh, cyclo-oxygenase là một chất giãn mạch của ống động mạch và mao mạch kháng phổi. Ức chế cyclo-oxygenase có thể gây đóng sớm ống động mạch. Những loại thuốc này chưa thấy có nguy cơ tăng dị tật bẩm sinh cấu trúc hoặc những ảnh hưởng khác như sinh non hoặc sinh con nhẹ cân. Tuy nhiên, có những nghiên cứu đoàn hệ được kiểm soát của Scandinavia cho thấy có tăng nguy cơ sẩy thai tự nhiên khi sử dụng NSAID trong 3 tháng đầu của thai kỳ nhưng không có bằng chứng về những ảnh hưởng khác đến quá trình mang thai. Lỗ hổng lớn trong nghiên cứu này là nghiên cứu hồi cứu dựa trên đơn thuốc và đã không kiểm soát các chỉ định sử dụng NSAIDs (ví dụ như sốt đơn thuần hay nhiễm siêu vi)
Một nghiên cứu ở California cũng cho thấy tăng 80% nguy cơ sẩy thai liên quan với việc sử dụng cả aspirin và NSAID trong 3 tháng đầu thai kỳ.
Một cơ chế được đề xuất để giải thích sự tăng nguy cơ sẩy thai là can thiệp trong quá trình phôi vùi vào tử cung do tác động qua prostaglandin. Phụ nữ đã sử dụng NSAIDs vô tình trong 3 tháng đầu thai kỳ nên được tư vấn về những ảnh hưởng của thuốc, và tốt nhất nên thay thế bằng thuốc giảm đau khác như paracetamol.
Chống chỉ định sử dụng NSAIDs sau 30 tuần thai vì nguy cơ gây ra đóng sớm ống động mạch thai nhi và gây tăng huyết áp động mạch phổi. Liều cao của NSAID trong 3 tháng cuối thai kỳ cũng có thể làm giảm tưới máu của thận thai nhi và làm giảm lượng nước tiểu của thai nhi.
Như với NSAIDs cũ, những mối quan tâm chính với các chất ức chế COX-2 là tác dụng trên ống động mạch cũng như tưới máu của thận thai nhi. NSAID dạng tại chỗ hấp thu vào máu với nồng độ không đáng kể và được coi là tương đối an toàn trong thời kỳ mang thai mặc dù nồng độ hấp thu sẽ tăng nếu sử dụng trên diện tích bề mặt lớn hoặc dưới tác dụng của nhiệt.
Opioid
Opioid như codeine, oxycodone, hydromorphone, hydrocodone và morphine, cũng như các thuốc như pethidine và tramadol, được sử dụng để điều trị đau vừa đến đau nặng. Codeine cũng được sử dụng rộng rãi trong nhiều thuốc không kê đơn. Nhìn chung, thuốc giảm đau opioid có liên quan với sự gia tăng dị tật bẩm sinh hoặc sẩy thai.
Ngoài ra còn có dữ liệu về ảnh hưởng lên sự phát triển thần kinh lâu dài ở những trẻ sơ sinh có tiếp xúc. Mối quan tâm chính về các loại thuốc này là sử dụng kéo dài có thể dẫn đến sự phụ thuộc và dung nạp thuốc ở người mẹ dẫn đến tình trạng suy hô hấp ở trẻ sơ sinh.
Phụ nữ với những cơn đau kéo dài có thể cần liều cao opioid trong thời kỳ mang thai nên điều trị đau trước khi mang thai. Có thể sử dụng thuốc thay thế bao gồm cả thuốc chống trầm cảm ba vòng có thể giúp kiểm soát cơn đau liên tục. Thuốc chống trầm cảm ba vòng không được liên kết với một tỷ lệ tăng khuyết tật bẩm sinh hoặc có ảnh hưởng đến sự phát triển thần kinh lâu dài.
Thời kỳ nuôi con bằng sữa mẹ
Paracetamol được xem là an toàn cho sử dụng trong thời gian cho con bú. Khoảng 6% paracetamol qua sữa mẹ ở liều thường dùng. Paracetamol còn được sử dụng rộng rãi ở trẻ em.
Những thuốc thuộc nhóm NSAIDs như ibuprofen, diclofenac có thể được sử dụng trong thời gian nuôi con bằng sữa mẹ.
Aspirin thường không được khuyến cáo cho điều trị đau trong quá trình nuôi con bằng sữa mẹ chủ yếu là vì có thể có ảnh hưởng đến trẻ sơ sinh. Ngoài ra còn có mối quan tâm về giả thuyết rằng aspirin có thể gây ra hội chứng Reye ở trẻ sơ sinh
Kết luận
Paracetamol nên là lựa chọn đầu tiên điều trị sốt và đau trong thời kỳ mang thai. Codeine hoặc thuốc giảm đau opioid khác có thể được chỉ định thêm để điều trị đau nặng. Việc sử dụng NSAID chống chỉ định trong 3 tháng cuối thai kỳ và các thuốc giảm đau thay thế cũng cần được xem xét trong 3 tháng đầu thai kỳ
Tài liệu tham khảo:
- Debra Kennedy, Director, MotherSafe, Royal Hospital for Women, and Conjoint Lecturer, Analgesics and pain relief in pregnancy and breastfeeding, School of Women's and Children's Health, University of New South Wales, Sydney, Aust Prescr 2011;34:8-10
- Rebordosa C, Kogevinas M, Horvath-Puho E, Norgard B, Morales M, Czeizel AE, et al. Acetaminophen use during pregnancy: effects on risk for congenital abnormalities. Am J Obstet Gynecol 2008;198:178. e1-7.
- Kozer E, Nikfar S, Costei A, Boskovic R, Nulman I, Koren G. Aspirin consumption during the first trimester of pregnancy and congenital anomalies: a meta-analysis. Am J Obstet Gynecol 2002;187:1623-30.
Sốt là triệu chứng phổ biến trong thực hành lâm sàng hàng ngày và một số lượng lớn người bệnh nhập viện do sốt. Nhiều người bệnh được dùng thuốc kháng sinh, thuốc kháng vi-rút, thuốc kháng nấm hoặc thuốc kháng ký sinh trùng, nếu coi nhiễm trùng là nguyên nhân chính. Tuy nhiên, thuốc được dùng để điều trị có thể là nguyên nhân tiềm ẩn gây sốt trong bối cảnh như vậy
Năm 2024, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) đã ban hành hướng dẫn về việc sử dụng doxycyclin dự phòng sau phơi nhiễm (doxy-PEP) để phòng ngừa bệnh nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục (STI). Dự phòng sau phơi nhiễm là một chiến lược hoá trị dự phòng, trong đó thuốc được dùng sau khi có khả năng phơi nhiễm để ngăn ngừa nhiễm trùng. Đây là một chiến lược phòng ngừa phổ biến và hiệu quả đối với HIV và các bệnh nhiễm trùng khác, chẳng hạn như bệnh dại và uốn ván. Doxycyclin là một kháng sinh nhóm tetracyclin phổ rộng dung nạp tốt và được khuyến cáo điều trị bệnh chlamydia và là phương pháp thay thế trong điều trị giang mai ở những bệnh nhân không có thai.
Việc bẻ, nghiền viên nén không bao, bao phim, bao đường hoặc mở viên nang giải phóng dược chất tức thì không làm thay đổi sinh khả dụng của thuốc và giúp bệnh nhân tuân thủ điều trị tốt hơn
Trẻ em không phải người lớn thu nhỏ. Các yếu tố dược động học ở trẻ sơ sinh thay đổi liên tục do sự phát triển nhanh về sinh lý. Tiêm tĩnh mạch thường được sử dụng trong điều trị cho trẻ sơ sinh, đặc biệt khi trẻ đang điều trị tại đơn vị chăm sóc tích cực. Khi tiêm tĩnh mạch, hiệu quả gần như tức thời. Hầu hết các loại thuốc tiêm tĩnh mạch cho trẻ sơ sinh có những yêu cầu riêng về độ pha loãng và/hoặc tốc độ truyền.
Trong giai đoạn năm 2018-2021, Mạng lưới An toàn Chăm sóc Sức khỏe Quốc gia (NHSN) đã báo cáo rằng 0,4% (n = 1.951) các ca nhiễm trùng mắc phải tại bệnh viện (HAI) ở Hoa Kỳ nguyên nhân do Acinetobacter spp. gây ra. Trong số này có 28-45% không nhạy cảm với kháng sinh carbapenem (tức là trung gian hoặc đề kháng).
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCT), BLING III cung cấp bằng chứng việc sử dụng truyền liên tục (CI) so với truyền ngắt quãng piperacillin/tazobactam và meropenem trên bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Điều này được củng cố bởi một đánh giá tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp (SRMA) của 18 RCT về CI hoặc truyền kéo dài (EI) (thời gian từ 3–4 giờ) các kháng sinh beta-lactam. Thách thức hiện nay là chuyển đổi CI như một tiêu chuẩn chăm sóc cho bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Các cân nhắc chính bao gồm các vấn đề sau: