Sử dụng thuốc kháng nấm đường uống trong thai kỳ làm tăng nguy cơ sẩy thai
DS. Thân Thị Mỹ Linh (Dịch)
Khoa Dược - BV Từ Dũ
Theo các nhà nghiên cứu Đan Mạch, phụ nữ mang thai có chỉ định sử dụng fluconazol đường uống để điều trị nhiễm candida âm đạo có nguy cơ sẩy thai tăng lên đáng kể.
Trong số 3315 phụ nữ đã sử dụng fluconazol đường uống trong thời gian từ tuần thứ 7 đến tuần thứ 22 của thai kỳ, 147 trường hợp đã sẩy thai tự nhiên. Ngược lại, 13.246 trường hợp trong nhóm đối chứng (những phụ nữ mang thai không sử dụng fluconazol) có 563 trường hợp xảy thai tự nhiên, sự khác biệt với tỷ lệ HR (hazard ratio) 1,48 (khoảng tin cậy 95% [CI], 1.23-1.77).
Có cùng một một kết cục đối với các trường hợp thai chết lưu, nguy cơ thai chết lưu ở phụ nữ uống fluconazol cao hơn so với những người không uống fluconazol, nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
“Cho đến khi các dữ liệu mới được bổ sung, cần phải thận trọng khi kê đơn fluconazol đường uống trong thai kỳ. Mặc dù nguy cơ thai chết lưu không tăng lên đáng kể nhưng kết quả này cần được nghiên cứu thêm" các nhà nghiên cứu viết trên tạp chí JAMA.
Tăng tiết hormon sinh dục khi mang thai làm tăng nguy cơ nhiễm candida âm đạo và ước tính rằng tỷ lệ nhiễm candida là 1 trên 10 phụ nữ mang thai ở Hoa Kỳ. Mặc dù nhiễm candida thường được điều trị bằng các thuốc kháng nấm nhóm azole bôi nhưng fluconazole đường uống có thể được chỉ định cho các trường hợp nhiễm candida nặng hoặc tái phát và dữ liệu về khả năng gây quái thai của thuốc này còn hạn chế.
Cơ sở dữ liệu của Đan Mạch
Để xem xét sự lien quan giữa việc sử dụng fluconazole đường uống trong thai kỳ với nguy cơ sảy thai và thai chết lưu, các nhà điều tra đã điều tra toàn diện trên toàn quốc về dữ liệu bệnh nhân và thuốc đã sử dụng để phâm nhóm. Các nhà nghiên cứu đã chọn tuần thứ 7 là điểm khởi đầu của quá trình mang thai vì nhiều sẩy thai xảy ra rất sớm không nhận biết được.
Mỗi người phụ nữ uống fluconazol được kết hợp bắt cặp với 4 phụ nữ mang thai không sử dụng fluconazol. Số liệu tổng hợp của nghiên cứu là 1.405.663 thai phụ.
Ngoài việc gia tăng nguy cơ sẩy thai tự nhiên khi sử dụng fluconazol đường uống với những trường hợp trong nhóm chứng có bắt cặp, các nhà nghiên cứu đã thấy một nguy cơ gia tăng khi sử dụng fluconazol so với những trường hợp trong nhón chứng không bắt cặp (HR 1.49; CI 95%, 1.27-1.75).
Ngoài ra, trong phân tích độ nhạy, nguy cơ sẩy thai cao hơn ở những phụ nữ sử dụng fluconazole đường uống so với những người sử dụng azol bôi (HR 1.62; 95% CI, 1.26-2.07) hoặc kháng sinh pivmecillinam (không được chấp thuận ở Hoa Kỳ).
Nghiên cứu được hỗ trợ bởi Hội đồng nghiên cứu y tế của Đan Mạch. Các tác giả đã tiết lộ không có mối quan hệ tài chính liên quan.
Nguồn:
Medscape.com
Sốt là triệu chứng phổ biến trong thực hành lâm sàng hàng ngày và một số lượng lớn người bệnh nhập viện do sốt. Nhiều người bệnh được dùng thuốc kháng sinh, thuốc kháng vi-rút, thuốc kháng nấm hoặc thuốc kháng ký sinh trùng, nếu coi nhiễm trùng là nguyên nhân chính. Tuy nhiên, thuốc được dùng để điều trị có thể là nguyên nhân tiềm ẩn gây sốt trong bối cảnh như vậy
Năm 2024, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) đã ban hành hướng dẫn về việc sử dụng doxycyclin dự phòng sau phơi nhiễm (doxy-PEP) để phòng ngừa bệnh nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục (STI). Dự phòng sau phơi nhiễm là một chiến lược hoá trị dự phòng, trong đó thuốc được dùng sau khi có khả năng phơi nhiễm để ngăn ngừa nhiễm trùng. Đây là một chiến lược phòng ngừa phổ biến và hiệu quả đối với HIV và các bệnh nhiễm trùng khác, chẳng hạn như bệnh dại và uốn ván. Doxycyclin là một kháng sinh nhóm tetracyclin phổ rộng dung nạp tốt và được khuyến cáo điều trị bệnh chlamydia và là phương pháp thay thế trong điều trị giang mai ở những bệnh nhân không có thai.
Việc bẻ, nghiền viên nén không bao, bao phim, bao đường hoặc mở viên nang giải phóng dược chất tức thì không làm thay đổi sinh khả dụng của thuốc và giúp bệnh nhân tuân thủ điều trị tốt hơn
Trẻ em không phải người lớn thu nhỏ. Các yếu tố dược động học ở trẻ sơ sinh thay đổi liên tục do sự phát triển nhanh về sinh lý. Tiêm tĩnh mạch thường được sử dụng trong điều trị cho trẻ sơ sinh, đặc biệt khi trẻ đang điều trị tại đơn vị chăm sóc tích cực. Khi tiêm tĩnh mạch, hiệu quả gần như tức thời. Hầu hết các loại thuốc tiêm tĩnh mạch cho trẻ sơ sinh có những yêu cầu riêng về độ pha loãng và/hoặc tốc độ truyền.
Trong giai đoạn năm 2018-2021, Mạng lưới An toàn Chăm sóc Sức khỏe Quốc gia (NHSN) đã báo cáo rằng 0,4% (n = 1.951) các ca nhiễm trùng mắc phải tại bệnh viện (HAI) ở Hoa Kỳ nguyên nhân do Acinetobacter spp. gây ra. Trong số này có 28-45% không nhạy cảm với kháng sinh carbapenem (tức là trung gian hoặc đề kháng).
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCT), BLING III cung cấp bằng chứng việc sử dụng truyền liên tục (CI) so với truyền ngắt quãng piperacillin/tazobactam và meropenem trên bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Điều này được củng cố bởi một đánh giá tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp (SRMA) của 18 RCT về CI hoặc truyền kéo dài (EI) (thời gian từ 3–4 giờ) các kháng sinh beta-lactam. Thách thức hiện nay là chuyển đổi CI như một tiêu chuẩn chăm sóc cho bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Các cân nhắc chính bao gồm các vấn đề sau: