Sử dụng thuốc trong phòng ngừa và điều trị băng huyết sau sinh
ThS. DS. Huỳnh Phương Thảo – Khoa Dược (lược dịch)
Băng huyết sau sinh (BHSS) là một trong những tai biến sản khoa phổ biến và là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong cho sản phụ trên toàn thế giới. Số sản phụ tử vong toàn cầu ước tính trong năm 2015 là 275.000 người, trong đó 34% gây ra bởi băng huyết sau sinh. Các trường hợp tử vong liên quan đến BHSS có khả năng ngăn ngừa được nếu chẩn đoán và xử trí kịp thời (1).
BHSS là tình trạng mất 500ml máu sau sinh ngả âm đạo hoặc mất 1.000ml máu sau mổ lấy thai hoặc ảnh hưởng tổng trạng hoặc Haematocrit giảm > 10% so với trước sinh (2).
Thiếu máu sau sinh (TMSS) được định nghĩa là khi Hemoglobin (Hb) <10 g/dL trong vòng 24-48 giờ sau sinh, (hoặc Hb <11 g/dL một tuần sau sinh và Hb <12 g/dL lúc 8-15 tuần sau sinh). TMSS mức độ nghiêm trọng khi Hb <7 g/dL (1).
Sau khi tình trạng xuất huyết được kiểm soát, nên sử dụng sắt tiêm hoặc truyền tĩnh mạch để điều trị thiếu máu sau sinh mức độ trung bình đến nặng (Hb 6-9 g/dL). Ở bệnh nhân thiếu máu nặng, giảm sản sinh hồng cầu do nhiễm trùng hoặc viêm, không đáp ứng với sắt đường tiêm, hoặc bệnh nhân từ chối truyền máu, nên sử dụng thêm chất kích thích tạo hồng cầu sau khi hội chẩn với bác sĩ huyết học (1).
Sinh qua ngả âm đạo
Sử dụng thuốc co hồi tử cung dự phòng có hiệu quả giảm tỷ lệ mắc BHSS, và oxytocin là lựa chọn ưu tiên. Tiêm hoặc truyền tĩnh mạch oxytocin trong giai đoạn ba của quá trình chuyển dạ có thể làm giảm tỷ lệ mắc BHSS nghiêm trọng và truyền máu so với tiêm bắp, mà không làm tăng tác dụng phụ. Sử dụng liều 5 hoặc 10 IU oxytocin, nên tiêm tĩnh mạch chậm (khoảng 30-60 giây) nếu sản phụ không có yếu tố nguy cơ tim mạch, khuyến cáo tiêm tĩnh mạch rất chậm (trên 5 phút) để hạn chế ảnh hưởng huyết động đối với sản phụ có nguy cơ tim mạch cao. Ngoài ra có thể sử dụng phenylephrine trước các liều oxytocin 0,05-0,5 IU tiếp theo. Việc truyền tĩnh mạch oxytocin thường quy không được khuyến khích khi sinh qua ngả âm đạo (1).
Ngoài ra, ở các cơ sở y tế không đủ điều kiện bảo quản lạnh, có thể sử dụng carbetocin, chất tương tự như oxytocin để ngăn ngừa BHSS. Acid tranexamic không nên sử dụng thường quy để phòng ngừa BHSS ở sản phụ sinh ngả âm đạo nhưng cần được xem xét trong trường hợp chảy máu trước sinh và ở những sản phụ có nguy cơ cao BHSS.
Sinh mổ
Sử dụng oxytocin 5-10 IU tiêm tĩnh mạch chậm (ít nhất 1 phút), nếu sản phụ có tiền sử tim mạch phải tiêm tĩnh mạch chậm (ít nhất 5 phút). Có thể tiếp tục truyền oxytocin, liều không được vượt quá 10 IU/giờ. Ngừng sử dụng sau 2 giờ nếu tử cung co hồi tốt và không có chảy máu bất thường. Có thể tiêm truyền liên tục oxytocin hoặc sử dụng “quy tắc 3” bao gồm tiêm tĩnh mạch oxytocin 3 IU/3ml, đánh giá trương lực tử cung sau 3, 6, 9 và 12 phút, nếu không đạt bổ sung thêm thuốc co hồi tử cung. Carbetocin cũng làm giảm nguy cơ BHSS, nhưng oxytocin vẫn là tiêu chuẩn vàng để phòng ngừa BHSS sau sinh mổ. Acid tranexamic không nên sử dụng thường quy để phòng ngừa BHSS, tiêm tĩnh mạch acid tranexamic 1g cùng với oxytocin cần được xem xét trong trường hợp chảy máu trước sinh và ở những sản phụ có nguy cơ cao BHSS (1), (2).
Có thể sử dụng các thuốc co hồi tử cung dạng tiêm khác như ergometrine/ methyl ergometrine hoặc misoprostol 800mcg dạng uống/đặt (1), (2).
Tài liệu tham khảo
(1) Muñoz, M., Stensballe, J., Ducloy-Bouthors, A.S., Bonnet, M.P., De Robertis, E., Fornet, I., Goffinet, F., Hofer, S., Holzgreve, W., Manrique, S. and Nizard, J., 2019. Patient blood management in obstetrics: prevention and treatment of postpartum haemorrhage. A NATA consensus statement. Blood Transfusion, 17(2), p.112.
(2) Bệnh viện Từ Dũ, Phác đồ điều trị Sản phụ khoa, 2019, Băng huyết sau sinh, Tr.51-55.
Trong giai đoạn năm 2018-2021, Mạng lưới An toàn Chăm sóc Sức khỏe Quốc gia (NHSN) đã báo cáo rằng 0,4% (n = 1.951) các ca nhiễm trùng mắc phải tại bệnh viện (HAI) ở Hoa Kỳ nguyên nhân do Acinetobacter spp. gây ra. Trong số này có 28-45% không nhạy cảm với kháng sinh carbapenem (tức là trung gian hoặc đề kháng).
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCT), BLING III cung cấp bằng chứng việc sử dụng truyền liên tục (CI) so với truyền ngắt quãng piperacillin/tazobactam và meropenem trên bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Điều này được củng cố bởi một đánh giá tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp (SRMA) của 18 RCT về CI hoặc truyền kéo dài (EI) (thời gian từ 3–4 giờ) các kháng sinh beta-lactam. Thách thức hiện nay là chuyển đổi CI như một tiêu chuẩn chăm sóc cho bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Các cân nhắc chính bao gồm các vấn đề sau:
Các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Alabama tại Birmingham, đã tiến hành phân tích dữ liệu thứ cấp trên đối tượng phụ nữ tăng huyết áp mạn tính trong thai kỳ, so sánh với phương pháp điều trị chính. Tăng huyết áp mạn tính nhẹ trong nghiên cứu được định nghĩa là huyết áp 140-159/90-104 mmHg trước 20 tuần của thai kỳ.
Nhiễm trùng huyết – sepsis - vẫn là một trong những nguyên nhân gây tử vong lớn nhất trên thế giới, Tổ chức Y tế Thế giới ước tính 11 triệu người tử vong mỗi năm do tình trạng này. Các yếu tố chính của việc quản lý sepsis là chẩn đoán sớm, liệu pháp kháng sinh kinh nghiệm sớm và phù hợp, với biện pháp kiểm soát nguồn gây bệnh thích hợp và bảo tồn chức năng các cơ quan.
Sự ra đời của vắc-xin giúp chúng ta chủ động phòng chống các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Tổ chức y tế thế giới ước tính chương trình tiêm chủng hiện nay giúp ngăn ngừa 3,5-5 triệu ca tử vong mỗi năm do các bệnh như bạch hầu, uốn ván, ho gà, cúm và sởi [2].
Phòng ngừa suy nhược, mệt mỏi, đau nhức:
Hoạt động mỗi ngày đi bộ ngắn, tập các bài tập nhẹ nhàng. Giữ tinh thần ổn định
Chế độ ăn hợp lý trao đổi thêm với bác sĩ về dinh dưỡng bổ sung (thực phẩm giàu protein như thịt, cá, phô mai, sữa chua...). Uống nhiều nước, trừ khi có hướng dẫn khác.
Chườm khăn lạnh nếu có nhức mỏi, đau cơ.