Sử dụng vitamin K dự phòng Hướng dẫn thực hành lâm sàng cho trẻ sơ sinh
Ths.Ds Thân Thị Mỹ Linh – Khoa Dược
(lược dịch)
Các hướng dẫn thực hành lâm sàng về sử dụng vitamin K để điều trị dự phòng cho trẻ sơ sinh đã được hiệp hội Nhi khoa Canada và hiệp hội Bác sĩ gia đình Canada ban hành vào tháng 10 năm 2018.
Sử dụng thường quy vitamin K cho trẻ sơ sinh tiếp tục được Hiệp hội Nhi khoa Canada khuyến cáo để ngăn ngừa chảy máu do thiếu vitamin K (vitamin K deficiency bleeding - VKDB). Vitamin K đường tiêm bắp (IM) được ưu tiên hơn so với đường uống (PO).
Khuyến cáo thực hành tốt nhất là tất cả trẻ sơ sinh nhận được một liều vitamin K tiêm bắp thường quy trong vòng 6 giờ đầu sau khi sinh với liều lượng như sau:
- 0,5 mg cho trẻ có cân nặng từ 1500 g trở xuống hoặc
- 1 mg cho trẻ sơ sinh nặng hơn 1500 g.
Cần thực hiện các biện pháp giảm đau nếu sử dụng thuốc đường tiêm bắp cho trẻ.
Tư vấn cho những cha mẹ từ chối sử dụng vitamin K tiêm bắp các rủi ro liên quan đến chảy máu do thiếu hụt vitamin K.
Trong trường hợp đó, khuyến nghị sử dụng 2mg vitamin K đường uống liều đầu tiên, sau đó lặp lại ở 2-4 tuần tuổi và 6-8 tuần tuổi.
Thông tin cho các bậc cha mẹ rằng:
- Vitamin K đường tiêm bắp có hiệu quả hơn vitamin K đường uống
- Cần tuân thủ chặt chẽ hơn nếu sử dụng đường uống
- Trẻ sẽ vẫn có nguy cơ bị chảy máu do thiếu hụt vitamin K muộn, với nguy cơ tiến triển xuất huyết nội sọ.
Ở trẻ non tháng cần được chăm sóc đặc biệt, không đủ bằng chứng để khuyến cáo dùng vitamin K tiêm tĩnh mạch.
Tài liệu tham khảo
https://reference.medscape.com/viewarticle/903760
Tiêm chủng cho mẹ giúp bảo vệ cả mẹ và thai nhi khỏi một số bệnh nhiễm trùng. Lý tưởng nhất là tiêm chủng trước khi thụ thai, nhưng trong một số trường hợp, việc tiêm chủng trong thai kỳ cũng được chỉ định.
Nhiều bằng chứng cho thấy rằng, việc sử dụng kháng sinh ở bệnh nhân tiên lượng nặng bị suy thận cấp (STC) thường không đạt được mục tiêu dược lực học và tỉ lệ tử vong cao liên quan đến nhiễm trùng. Do đó, bài viết này đánh giá những thay đổi thông số về dược động học và dược lực học trên bệnh nhân nặng có STC và đề xuất những giải pháp để có thể tối ưu liều dùng kháng sinh trên những bệnh nhân này.
Trong bản dự thảo cuối cùng, Viện Y tế và Chất lượng Điều trị Quốc gia Anh (NICE) cho biết relugolix-estradiol-norethisterone là một lựa chọn để điều trị các triệu chứng lạc nội mạc tử cung ở những người phụ nữ trưởng thành đang trong độ tuổi sinh sản, nhưng không đáp ứng với phương pháp điều trị nội khoa hoặc phẫu thuật trước đó.
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), có khoảng 10% bệnh nhân tại Mỹ được báo cáo bị dị ứng penicillin. Tuy nhiên, dưới 1% bị dị ứng qua trung gian IgE (loại 1) và các nhà nghiên cứu lưu ý rằng, khoảng 80% bệnh nhân này sẽ mất độ nhạy cảm sau 10 năm. Hơn nữa, CDC khuyến nghị cần xác định những bệnh nhân không thực sự dị ứng penicillin để giảm việc sử dụng kháng sinh phổ rộng không cần thiết. Phản ứng chéo giữa penicillin và cephalosporinlà rất hiếm, nhưng nhiều bác sĩ tránh kê đơn cephalosporin cho bệnh nhân bị dị ứng penicillin, dẫn đến tăng cường sử dụng các loại kháng sinh khác như là quinolon, macrolid, clindamycin, carbapenem và vancomycin, thường gặp nhiều tác dụng phụ hơn, tăng chi phí chăm sóc sức khỏe và góp phần vào tình trạng đề kháng kháng sinh
Độc tính trên thận do thuốc là nguyên nhân phổ biến gây ra tổn thương thận cấp tính (AKI) và kháng sinh (KS) là một trong những nhóm thuốc lớn nhất liên quan đến AKI. Cơ chế gây độc tính trên thận do KS bao gồm tổn thương cầu thận, tổn thương hoặc rối loạn chức năng ống thận, tắc nghẽn ống lượn xa do trụ niệu và viêm thận kẽ cấp tính (AIN) do phản ứng quá mẫn loại IV (loại chậm). Các biểu hiện lâm sàng của độc tính trên thận do KS bao gồm hoại tử ống thận cấp (ATN), AIN và hội chứng Fanconi.
Trong 6 tháng đầu năm 2025, Bệnh viện Từ Dũ ghi nhận 204 báo cáo ADR, tăng 1,3 lần so với cùng kỳ năm 2024 (160 báo cáo).