Tác dụng bất lợi thường gặp của thuốc cản quang chứa Iod
DS. Huỳnh Thị Hồng Gấm
Khoa Dược – BV Từ Dũ
1. Thuốc cản quang và thuốc cản quang chứa Iod.
Thuốc cản quang là những chất được sử dụng để tăng cường mức độ tương phản của cấu trúc hoặc dịch cơ thể khi chụp hình chẩn đoán.
Thuốc cản quang chứa Iod có bản chất là polymer gắn Iod. Tác dụng của thuốc phụ thuộc vào lượng Iod được gắn vào polymer.
Thuốc cản quang chứa Iod là loại thuốc cản quang có số lượng sử dụng nhiều nhất (trên 50% theo số lượng thống kê tại Mỹ vào năm 2006).
Thuốc cản quang chứa Iod được phân thành 2 loại: Thuốc cản quang chứa Iod tan trong dầu và thuốc cản quang chứa Iod tan trong nước.
TCQ Iod tan trong dầu:
- Được sử dụng chụp các hốc tự nhiên của cơ thể
- Sử dụng bằng cách bơm trực tiếp vào vị trí cần chụp
- Hiện được thay thế dần bằng loại TCQ Iod tan trong nước low osmolar
- Không được dùng TCQ Iod tan trong dầu qua đường tĩnh mạch
TCQ Iod tan trong nước:
Là nhóm thuốc cản quang thông dụng nhất hiện nay, được chia thành 04 nhóm nhỏ sau đây
Nhóm |
Thuốc |
Áp lực thẩm thấu |
TCQ Iod tan trong nước high osmolar ionic monomer |
Diatrizoate, Iodomide, Iotalamate, Ioxitalamate, Metrizoate |
600-2100 mOsm/kg so với 290 mOsm/kg của huyết tương
|
TCQ Iod tan trong nước low osmolar ionic dimer |
Ioxaglate
|
600 mOsm/kg |
TCQ Iod tan trong nước low osmolar non-ionic monomer |
Iobitridol, Lohexol, Iomeprol, Iopamidol, Iopromide, Loversol. |
290-860 mOsm/kg |
TCQ Iod tan trong nước iso-osmolar non-ionic dimer |
Iodixonal, Iotrolan |
Áp lực thẩm thấu tương đương áp lực thẩm thấu của huyết tương |
- 2. Tác dụng bất lợi thường gặp (ADR) của thuốc cản quang chứa Iod
ADR nhẹ |
ADR trung bình |
ADR nặng |
Buồn nôn, nôn Cảm giác nóng bừng Phát ban nhẹ, ngứa Tái nhợt, vã mồ hôi |
Mệt lả, choáng váng Nôn nhiều Phát ban trên diện rộng Phù thanh môn hoặc phù mặt Đau ngực Co thắt khó thở Rét run Đau bụng Đau đầu Co giật |
Xẹp phổi Mất nhận thức Co thắt phế quản Phù thanh môn, phù phổi Ngưng tim Hội chứng nhồi máu cơ tim Loạn nhịp tim |
b. Nguy cơ xuất hiện ADR của thuốc cản quang chứa Iod [3,4]
Yếu tố nguy cơ mắc phải ADR sớm liên quan đến TCQ Iod tan trong nước
- Tiền sử trước đó đã có dị ứng với thuốc cản quang chứa Iod. 21-60% nguy cơ tái phản ứng khi dùng lặp lại một thuốc hay thuốc khác trong nhóm thuốc cản quang chứa Iod.
- Tiền sử dị ứng:Hen suyễn là yếu tố ảnh hưởng quan trọng nhất đối với phản ứng nặng. Không có bằng chứng về việc dị ứng hải sản có ảnh hưởng tới phản ứng.
- Bệnh tim mạch (đặc biệt là suy tim)
- Tình trạng mất nước (dehydration)
- Bệnh huyết học như hồng cầu liềm, tăng hồng cầu, u tủy
- Bệnh về thận, đang dùng thuốc có độc với thận
- Tuổi: trẻ em, người lớn tuổi
- Dùng liều cao, lặp lại nhiều lần, trong thời gian ngắn (72 giờ)
- Dùng các thuốc chẹn beta, kháng viêm non- steroid, interleukin-2
- Lo âu, trầm cảm
c. Tỷ lệ ADR đối với TCQ Iod tại Việt Nam
ADR liên quan đến TCQ Iod từ 2006-2011, theo tên thương mại
STT |
Tên Biệt Dược |
Hoạt chất |
Phân loại |
Số Lượng |
Tỷ lệ |
1 |
Telebrix |
Ioxitalamic acid |
Ionic monomer |
74 |
55.22 |
2 |
Xenetic |
Iobitridol |
Non ionic monomer |
32 |
23.88 |
3 |
Ultravist |
Iopromide |
Non ionic monomer |
23 |
17.16 |
4 |
Pamiray |
Iopamidol |
Non ionic monomer |
4 |
2.99 |
5 |
Iopamiro |
Iopamidol |
Non ionic monomer |
1 |
0.75 |
Tồng cộng |
|
134 |
100 |
(Nguồn: trung tâm ADR quốc gia)
3. Dự phòng ADR TCQ Iod [1]
Quan điểm của Châu Âu (Guideline của ESUR)
- Nhận biết các yếu tố nguy cơ có thể đưa đến ADR nặng
- Giảm thiểu nguy cơ: sử dụng TCQ Iod loại non-ionic
- Dùng thuốc dự phòng đối với đối tượng nguy cơ cao (mục 2b)
Khi sử dụng TCQ Iod ionic, tối ưu nên dùng thuốc dự phòng cho đối tượng nguy cơ cao ngay cả khi sử dụng loại non-ionic
Thuốc dự phòng:
Corticosteroids: Prednison 30mg uống hoặc Methylprednison 32 mg uống 12 và 2 giờ trước khi dùng TCQ Iod (thuốc không có tác dụng nếu uống < 6 giờ trước khi dùng TCQ)
Antihistamines H1 và H2: có thể sử dụng cùng với corticoid, tốt nhất nên dùng tách riêng.
Với mọi trường hợp:
- Luôn có sẵn một xe cấp cứu với đầy đủ thuốc và dụng cụ bên cạnh (trong phòng chụp)
- Theo dõi bệnh nhân 20-30 phút sau khi tiêm TCQ Iod
- Trường hợp tiêm ngoài mạch: Thuốc sẽ được hấp thu vào tuần hoàn, phải lưu ý như đối với trường hợp tiêm vào tĩnh mạch
Điều trị dự phòng giảm nguy cơ sốc phản vệ với thuốc cản quang còn 1%
4. Một số lưu ý khi dùng thuốc cản quang Iod
- Phản ứng với thuốc cản quang gặp nhiều ở nhóm áp lực thẩm thấu cao và ion hóa
- Thường sốc theo cơ chế phản ứng dạng phản vệ (anaphylactoid reaction). Phản ứng dạng phản vệ xảy ra trên 1-3% bệnh nhân sử dụng thuốc cản quang ion hóa (0,22% phản ứng ở mức độ nghiệm trọng, đe dọa tính mạng) và < 0,5% bệnh nhân sử dụng thuốc cản quang không ion hóa (0,04% phản ứng ở mức độ nghiệm trọng, đe dọa tính mạng) [2]
- Yếu tố nguy cơ: Tiền sử sốc với thuốc cản quang, hen phế quản, bệnh tim mạch, đang dùng thuốc chẹn beta: khuyến cáo dùng thuốc cản quang không ion hóa
- Dự phòng sốc phản vệ bằng corticoid và kháng histamine
- Cần chú ý chức năng thận của bệnh nhân để có những điều chỉnh trong khi dùng thuốc cản quang
- Chú ý các thuốc dùng cùng thuốc cản quang chứa Iod
- Sử dụng phác đồ grade doses
- Cần trang bị các thiết bị trong phòng chụp X quang để xử lý kịp thời các trường hợp xảy ra.
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Trường Sơn, Nguyễn Quốc Bình. Trung tâm DI & ADR TP.HCM. Thuốc cản quang chứa Iod.
2. Trần Quang Bính. Sốc phản vệ do thuốc cản quang
3. Idee JM et al. Fundam Clin Pharmacol 2005 ; 19 : 263-81.
4. Gueant- Rodriguez RM et al. Curr Pharm Des 2006 ; 12 : 3359-72.
Việc nhai, bẻ, nghiền các loại thuốc viên đôi khi cần thiết trong một số trường hợp. Tuy nhiên, các thuốc có dạng bào chế đặc biệt nếu bị nhai, bẻ, nghiền có thể ảnh hưởng đến tác dụng điều trị và tính an toàn của thuốc. Chẳng hạn như nếu nghiền viên phóng thích chậm hoặc phóng thích kéo dài sẽ gây phóng thích một lượng lớn hoạt chất tại một thời điểm nhất định, gây quá liều thuốc và gây nguy hiểm cho người bệnh. Nghiền viên bao tan trong ruột có thể làm cho thuốc bị bất hoạt ở dạ dày hoặc gây kích ứng cho đường tiêu hóa.
Cúm là một bệnh đường hô hấp cấp tính do vi-rút cúm A hoặc B gây ra, xảy ra thành các đợt bùng phát và dịch bệnh trên toàn thế giới, chủ yếu vào mùa đông. Tỷ lệ mắc bệnh và tử vong liên quan đến cúm cao hơn ở những phụ nữ mang thai và mới sinh (trong vòng hai tuần sau khi sinh hoặc sảy thai) so với dân số nói chung.
Probiotics được định nghĩa là “các vi sinh vật sống, khi được đưa vào cơ thể với số lượng đủ, sẽ mang lại lợi ích cho sức khỏe của vật chủ”. Các chủng vi khuẩn tạo axit lactic là quan trọng nhất trong thực phẩm và dinh dưỡng, chủng thuộc chi Lactobacillus và Bifidobacterium là những probiotic được sử dụng phổ biến nhất, ngoài ra còn kể đến các chi Bacillus, Streptococcus, Enterococcus, Saccharomyces và Escherichia coli
- Bệnh viện đã thực hiện 378 báo cáo ADR, giảm 7,9% so với năm 2023 (408 báo cáo), tăng 14,2% so với năm 2022 (331 báo cáo).
- Số lượng báo cáo ADR ngoại trú là 18 báo cáo, giảm 3,6 lần so với năm 2023 (66 báo cáo).
- Bệnh viện Từ Dũ được Trung tâm DI&ADR quốc gia xếp hạng 8/991 cơ sở khám chữa bệnh có hoạt động theo dõi ADR hiệu quả trong báo cáo tổng kết ADR quốc gia vào tháng 9/2024.
Mirvetuximab soravtansine-gynx đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt điều trị cho bệnh nhân trưởng thành mắc ung thư biểu mô buồng trứng, ống dẫn trứng, hoặc ung thư phúc mạc nguyên phát dương tính với thụ thể folat alpha (FRα), kháng hóa trị, là những bệnh nhân đã trải qua 3 liệu trình điều trị trước đó. Theo các chuyên gia, bệnh nhân mắc các loại ung thư này thường được phát hiện khi bệnh đã ở giai đoạn muộn, trải qua phẫu thuật và sau đó được điều trị bằng phác đồ hóa trị có platinum nhưng có thể trở nên kháng thuốc.
Kháng sinh (KS) phổ rộng được xem như “thần dược” để điều trị các bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng hoặc đe dọa tính mạng khi tác nhân gây bệnh chưa được xác định. Mục đích sử dụng KS phổ rộng nhằm bao phủ nhiều loại tác nhân vi khuẩn gram dương và gram âm, bao gồm cả các tác nhân kháng thuốc trong khi chờ kết quả nuôi cấy. Tuy nhiên, việc sử dụng bừa bãi các KS phổ rộng cũ và mới đã góp phần đáng kể vào sự gia tăng tình trạng kháng kháng sinh (AMR) – một vấn đề sức khỏe toàn cầu đáng lưu ý.