Thông báo cập nhật thông tin liên quan đến tính an toàn của thuốc giảm đau nhóm opioid, thuốc điều trị đái tháo đường tuýp 2 chứa metformin, kháng sinh nhóm fluoroquinolone.
Theo Công văn số 24812/QLD-TT ngày 21/12/2016 của Cục Quản lý Dược về việc cung cấp thông tin liên quan đến tính an toàn của thuốc giảm đau nhóm opioid; thuốc điều trị đái tháo đường tuýp 2 chứa metformin; thuốc chứa saxagliptin, alogliptin; thuốc kháng sinh nhóm fluoroquinolone và thuốc chứa ketoconazole viên nén dạng uống,
Nhằm đảm bảo việc sử dụng thuốc an toàn hợp lý, Giám đốc bệnh viện Từ Dũ khuyến cáo về việc sử dụng thuốc giảm đau nhóm opioid, thuốc điều trị đái tháo đường tuýp 2 chứa metformin, kháng sinh nhóm fluoroquinolone tại bệnh viện Từ Dũ:
1. Thuốc giảm đau nhóm opioid (Morphin, Pethidine...) khi sử dụng có những nguy cơ sau:
a) Các opioid có thể tương tác với các thuốc chống trầm cảm và thuốc điều trị đau nữa dầu và gây ra một phản ứng nghiêm trọng của hệ thần kinh trung ương được gọi là hội chứng serotonin – đặc trưng bởi nồng độ cao chất hóa học serotonin tích tụ trong não gây độc tính.
b) Khi uống các opioid có thể dẫn đến một tình trạng hiếm gặp nhưng nghiêm trọng: tuyến thượng thận không sản xuất đủ lượng hormon cortisol – hormon giúp cơ thể phản ứng lại với các stress
c) Sử dụng lâu dài các opioid có thể liên quan đến việc giảm nồng độ hormon sinh dục và các triệu chứng như giảm ham muốn tình dục, liệt dương hoặc vô sinh.
2. Thuốc điều trị đái tháo đường tuýp 2 chứa Metformin có thể được sử dụng một cách an toàn ở các bệnh nhân suy giảm chức năng thận mức độ nhẹ đến vừa.
3. Thuốc kháng sinh nhóm flouroquinolone (Ciprofloxacin, Levofloxacin, Ofloxacin) khi sử dụng có liên quan đến các tác dụng phụ nghiêm trọng liên quan đến các gân, cơ, xương, dây thần kinh và hệ thống thần kinh trung ương, có thể kéo dài vĩnh viễn gây mất khả năng lao động và có thể xảy ra đồng thời.
Các khoa lâm sàng, khoa khám bệnh tăng cường việc theo dõi, phát hiện và xử trí các trường hợp xảy ra tác dụng không mong muốn của thuốc giảm đau nhóm opioid, thuốc điều trị đái tháo đường tuýp 2 chứa metformin, kháng sinh nhóm fluoroquinolone; gửi báo cáo ADR (nếu có) về khoa Dược./.
Probiotics được định nghĩa là “các vi sinh vật sống, khi được đưa vào cơ thể với số lượng đủ, sẽ mang lại lợi ích cho sức khỏe của vật chủ”. Các chủng vi khuẩn tạo axit lactic là quan trọng nhất trong thực phẩm và dinh dưỡng, chủng thuộc chi Lactobacillus và Bifidobacterium là những probiotic được sử dụng phổ biến nhất, ngoài ra còn kể đến các chi Bacillus, Streptococcus, Enterococcus, Saccharomyces và Escherichia coli
- Bệnh viện đã thực hiện 378 báo cáo ADR, giảm 7,9% so với năm 2023 (408 báo cáo), tăng 14,2% so với năm 2022 (331 báo cáo).
- Số lượng báo cáo ADR ngoại trú là 18 báo cáo, giảm 3,6 lần so với năm 2023 (66 báo cáo).
- Bệnh viện Từ Dũ được Trung tâm DI&ADR quốc gia xếp hạng 8/991 cơ sở khám chữa bệnh có hoạt động theo dõi ADR hiệu quả trong báo cáo tổng kết ADR quốc gia vào tháng 9/2024.
Mirvetuximab soravtansine-gynx đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt điều trị cho bệnh nhân trưởng thành mắc ung thư biểu mô buồng trứng, ống dẫn trứng, hoặc ung thư phúc mạc nguyên phát dương tính với thụ thể folat alpha (FRα), kháng hóa trị, là những bệnh nhân đã trải qua 3 liệu trình điều trị trước đó. Theo các chuyên gia, bệnh nhân mắc các loại ung thư này thường được phát hiện khi bệnh đã ở giai đoạn muộn, trải qua phẫu thuật và sau đó được điều trị bằng phác đồ hóa trị có platinum nhưng có thể trở nên kháng thuốc.
Kháng sinh (KS) phổ rộng được xem như “thần dược” để điều trị các bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng hoặc đe dọa tính mạng khi tác nhân gây bệnh chưa được xác định. Mục đích sử dụng KS phổ rộng nhằm bao phủ nhiều loại tác nhân vi khuẩn gram dương và gram âm, bao gồm cả các tác nhân kháng thuốc trong khi chờ kết quả nuôi cấy. Tuy nhiên, việc sử dụng bừa bãi các KS phổ rộng cũ và mới đã góp phần đáng kể vào sự gia tăng tình trạng kháng kháng sinh (AMR) – một vấn đề sức khỏe toàn cầu đáng lưu ý.
Những dữ kiện của một nghiên cứu tiền lâm sàng cho thấy: đái tháo đường thai kỳ (ĐTĐTK) có thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng và tử vong ở trẻ sơ sinh nguyên nhân do liên cầu khuẩn nhóm B (GBS). Có nhiều lý do như: thay đổi hệ vi sinh vật âm đạo, giảm đáp ứng miễn dịch và quá trình điều hoà thích nghi của vi khuẩn.
Tiền sản giật là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong mẹ. Bệnh lý tiền sản giật có liên quan đến sự xâm lấn tế bào nuôi nhau thai và sự tái cấu trúc động mạch xoắn tử cung. Với đặc tính kháng viêm, aspirin được giả thuyết rằng có thể cải thiện sự bám nhau giúp ngăn ngừa tiền sản giật. Vì vậy, spirin liều thấp được khuyến cáo sử dụng để dự phòng tiền sản giật trong thai kỳ. Mặt khác, aspirin cũng được chỉ định cho các trường hợp thai giới hạn tăng trưởng, sinh non, thai lưu.