Thông báo về kết quả giám sát tình hình sử dụng thuốc kháng dị ứng và việc báo cáo ADR 6 tháng đầu năm 2016
I. KẾT QUẢ GIÁM SÁT
Nhận xét:
Số lượng báo cáo ADR từ khoa Sanh cao nhất với 23 báo cáo chiếm tỷ lệ 27.7%, tiếp theo là khoa Hậu Sản M với 13 báo cáo chiếm tỷ lệ 15.7%, khoa Phụ với 12 báo cáo chiếm tỷ lệ 14.5%, khoa Hậu Phẫu với 9 báo cáo chiếm tỷ lệ 10.8%. Đây là những khoa rất tích cực trong công tác theo dõi và báo cáo ADR góp phần đánh giá lợi ích, nguy cơ của thuốc, tăng cường sử dụng thuốc an toàn, hợp lý và hiệu quả.
Các khoa không có báo cáo ADR trong 6 tháng đầu năm 2016 gồm: khoa Hậu Sản H, khoa Ung bướu phụ khoa, khoa Cấp Cứu Chống Độc, khối phòng khám.
II. TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC BÁO CÁO ADR
Thử nghiệm lâm sàng với một thuốc trước khi đưa ra thị trường chỉ được tiến hành trên một số lượng bệnh nhân rất ít so với lượng bệnh nhân sẽ sử dụng thuốc đó trong thực tế. Mặt khác các thử nghiệm lâm sàng thường không đánh giá trên các đối tượng bệnh nhân đặc biệt như người già, trẻ em, phụ nữ có thai, bệnh nhân suy gan, suy thận…Điều đó cho thấy những thông tin về độ an toàn của một thuốc thu được từ các thử nghiệm lâm sàng là rất hạn chế, đặc biệt là thông tin về các phản ứng nghiêm trọng nhưng có tần suất xảy ra thấp.
Do vậy, thông tin do các cán bộ y tế cung cấp về các phản ứng có hại của thuốc sẽ rất hữu ích để tiếp tục đánh giá một cách toàn diện hơn về các nguy cơ tiềm ẩn của thuốc khi lưu hành trên thị trường.
Trong nhiều năm qua, quý bác sĩ, dược sĩ và hộ sinh viên đã cùng đồng hành với đơn vị Thông tin thuốc của bệnh viện trong việc ghi nhận và báo cáo nhiều trường hợp ADR xảy ra khi sử dụng thuốc cho người bệnh và đã được Trung tâm DI và ADR Quốc gia đánh giá cao công tác Cảnh giác dược tại bệnh viện.
Vì vậy, trong 6 tháng cuối năm 2016, ngoài những trường hợp truyền máu, bệnh lý huyết học, giảm buồn nôn và nôn do hóa trị, dị ứng thức ăn…, đối với các trường hợp sử dụng thuốc chống dị ứng (ví dụ: Chlorpheniramin, Hydrocortison…) do phản ứng có hại của thuốc hoặc dị ứng thuốc, bệnh viện rất mong các khoa tích cực làm báo cáo ADR gửi về khoa Dược nhằm:
- Cải thiện việc chăm sóc người bệnh và tính an toàn của việc sử dụng thuốc
- Góp phần đánh giá lợi ích, nguy cơ của thuốc, tăng cường sử dụng thuốc an toàn, hợp lý và hiệu quả.
Rất mong sự hợp tác của các Khoa lâm sàng trong việc thực hiện tốt nhiệm vụ cảnh giác dược trong bệnh viện.
Độc tính trên thận do thuốc là nguyên nhân phổ biến gây ra tổn thương thận cấp tính (AKI) và kháng sinh (KS) là một trong những nhóm thuốc lớn nhất liên quan đến AKI. Cơ chế gây độc tính trên thận do KS bao gồm tổn thương cầu thận, tổn thương hoặc rối loạn chức năng ống thận, tắc nghẽn ống lượn xa do trụ niệu và viêm thận kẽ cấp tính (AIN) do phản ứng quá mẫn loại IV (loại chậm). Các biểu hiện lâm sàng của độc tính trên thận do KS bao gồm hoại tử ống thận cấp (ATN), AIN và hội chứng Fanconi.
Trong 6 tháng đầu năm 2025, Bệnh viện Từ Dũ ghi nhận 204 báo cáo ADR, tăng 1,3 lần so với cùng kỳ năm 2024 (160 báo cáo).
Việc sử dụng hệ thống phóng thích Levonorgestrel trong tử cung (LNG-IUS: Levonorgestrel-releasing intrauterine system) có liên quan đến tăng nguy cơ ung thư vú. Một nghiên cứu ở Đan Mạch ghi nhận 14 trường hợp ung thư vú trên 10.000 phụ nữ tránh thai bằng LNG-IUS so với phụ nữ tránh thai không dùng nội tiết.
Theo kết quả của một nghiên cứu trên JAMA Network Open, tiêm vắc-xin cúm không liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc các kết quả bất lợi trong thời kỳ chu sinh đối với những người mang thai liên tiếp. Các tác giả nghiên cứu cho biết những phát hiện này ủng hộ các khuyến nghị hiện tại cho những người mang thai hoặc những người có thể mang thai trong mùa cúm.
Staphylococcus aureus, một loại vi khuẩn gram dương, là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do nhiễm trùng huyết trên toàn thế giới, với tỷ lệ tử vong từ 15% đến 30% và ước tính có 300.000 ca tử vong mỗi năm.
Các loài thuộc chi Candida là một phần của hệ vi sinh vật thường trú trong âm đạo có khoảng 25% ở phụ nữ, do vậy việc phát hiện nấm không đủ để chẩn đoán bệnh. Ước tính có 75% phụ nữ bị nhiễm nấm candida âm đạo ít nhất một lần trong đời. Nồng độ estrogen và tăng sản xuất glycogen ở âm đạo, tình trạng này xảy ra thường gặp và nghiêm trọng hơn trong thai kỳ. Trong thời kỳ mang thai, bệnh có liên quan đến những kết quả bất lợi trong sản khoa như vỡ ối sớm, chuyển dạ sớm, viêm màng ối, nhiễm nấm candida da ở trẻ sơ sinh và nhiễm trùng hậu sản 1. Bệnh viêm âm hộ-âm đạo do nấm candida là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất có triệu chứng gây ngứa và tiết dịch âm đạo. Biểu hiện của bệnh là tình trạng viêm thường gặp ở các loài nấm Candida với các triệu chứng là ngứa và viêm đỏ.