Thông báo về phản ứng sau tiêm chủng vắc-xin viêm gan B sơ sinh trong dự án tiêm chủng mở rộng
DS. Đặng Thị Thuận Thảo
Khoa Dược – BV Từ Dũ
Ngày 20/7/2013 đã xảy ra 3 trường hợp tử vong sau tiêm chủng vaccin viêm gan B sơ sinh tại Bệnh viện đa khoa huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị. Ngay sau khi xảy ra sự việc trên, Bộ trưởng Bộ Y tế đã cử đoàn cán bộ bao gồm các nhà khoa học, các chuyên gia hàng đầu về tiêm chủng tới Quảng Trị vào ngày 21/7/72013 để phối hợp với Sở Y tế, cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an tỉnh Quảng Trị và các đơn vị liên quan điều tra về dịch tễ học, lâm sàng quy trình tiêm chủng nhằm xác định nguyên nhân sự cố này.
Ngày 22/7/2013, dựa trên kết quả điều tra thực địa và kết quả khám nghiệm tử thi của cơ quan Cảnh sát điều tra tỉnh, Đoàn đã có kết luận sơ bộ như sau: Đây là chùm phản ứng sau tiêm vaccin viêm gan B sơ sinh, do sốc phản vệ chưa rõ nguyên nhân. Cơ quan Cảnh sát điều tra tỉnh Quảng Trị đã độc lập lấy mẫu vaccin, mẫu phủ tạng gửi Viện Kiểm dịch quốc gia vaccin và xét nghiệm mẫu.
Ngày 22/7/2013, Bộ Y tế đã có văn bản thông báo tạm dừng sử dụng trên toàn quốc đối với 2 lô vaccine viêm gan B có liên quan đến phản ứng sau tiêm chủng nêu trên. Cục Quản lý đã ban hành công văn khẩn số 11571 /QLD- CL về việc tạm ngừng vắc-xin viêm gan B thuộc 2 lô có liên quan là V-GB020812E và V-GB030812E, HD: 07/2015, SĐK: QLVX-0376-11 do Công ty TNHH MTV Vắc xin và Sinh phẩm Y tế số 1 (Vabiotech) sản xuất.
Ngày 24/7/2013, Bộ trưởng Bộ Y tế đã họp với các Hội đồng tư vấn sử dụng vaccin, sinh phẩm y tế, Hội đồng tư vấn đánh giá phản ứng sau tiêm và các chuyên gia đầu ngành về các trường hợp phản ứng sau tiêm chủng vaccin viêm gan B sơ sinh tại Bệnh viện đa khoa huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị. Sau khi thảo luận, Bộ Y tế đã có Thông báo số 641/TB-DP về phản ứng sau tiêm chủng vaccin viêm gan B sơ sinh trong Dự án TCMR tại tỉnh Quảng Trị. Bộ Y tế cũng khuyến cáo, tiếp tục tiêm vaccin viêm gan B sơ sinh theo lịch trong Dự án Tiêm chủng mở rộng để phòng bệnh chủ động cho trẻ em và cộng đồng.
Kháng sinh chiếm gần 80% tổng số đơn thuốc được kê trong thời kỳ mang thai, và khoảng 20%–25% phụ nữ sẽ sử dụng kháng sinh trong thai kỳ. Các bệnh nhiễm trùng phổ biến nhất bao gồm nhiễm trùng đường tiết niệu (UTIs), nhiễm trùng đường sinh dục, nhiễm trùng da - mô mềm và nhiễm trùng đường hô hấp. Việc sử dụng kháng sinh trong thai kỳ luôn cần được cân nhắc giữa nguy cơ và lợi ích.
Lạc nội mạc tử cung là bệnh lý viêm mạn tính phụ thuộc estrogen, ảnh hưởng khoảng 10% phụ nữ trong độ tuổi sinh sản.
Bệnh đặc trưng bởi sự hiện diện của mô nội mạc tử cung ngoài buồng tử cung, gây đau bụng kinh, đau khi giao hợp, đau vùng chậu kéo dài và vô sinh, làm giảm đáng kể chất lượng cuộc sống.
Điều trị cần được cá thể hóa, tùy theo mức độ triệu chứng, vị trí tổn thương và nhu cầu sinh sản. Hướng dẫn hiện nay khuyến nghị kết hợp giữa điều trị nội khoa, ngoại khoa và hỗ trợ không dùng thuốc.
Phản ứng có hại của thuốc (ADR) là vấn đề thường gặp trong thực hành lâm sàng và có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ, tính mạng người bệnh nếu không được nhận biết sớm và xử trí kịp thời.
Acetaminophen (paracetamol) đã được sử dụng để hạ sốt và giảm đau từ nhẹ đến trung bình. Thuốc có sẵn ở dạng đơn chất hoặc kết hợp với các thuốc khác để điều trị các triệu chứng cảm lạnh, cúm, đau đầu và viêm xương khớp. Tên thương mại phổ biến là Tylenol. Theo Tạp chí Wall Street Journal đưa tin, Bộ trưởng Y tế Hoa Kỳ dự định thông tin về mối liên quan giữa chứng tự kỷ và việc phơi nhiễm với thuốc giảm đau và hạ sốt Tylenol trước khi sinh, như sau:
Tiêm chủng cho mẹ giúp bảo vệ cả mẹ và thai nhi khỏi một số bệnh nhiễm trùng. Lý tưởng nhất là tiêm chủng trước khi thụ thai, nhưng trong một số trường hợp, việc tiêm chủng trong thai kỳ cũng được chỉ định.
Nhiều bằng chứng cho thấy rằng, việc sử dụng kháng sinh ở bệnh nhân tiên lượng nặng bị suy thận cấp (STC) thường không đạt được mục tiêu dược lực học và tỉ lệ tử vong cao liên quan đến nhiễm trùng. Do đó, bài viết này đánh giá những thay đổi thông số về dược động học và dược lực học trên bệnh nhân nặng có STC và đề xuất những giải pháp để có thể tối ưu liều dùng kháng sinh trên những bệnh nhân này.



