Thông tin an toàn thuốc: nguy cơ sử dụng magnesium sulfate kéo dài trong chuyển dạ sinh non
DS. Võ Trương Diễm Phương (Dịch)
Khoa Dược – BV Từ Dũ
Cơ quan quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đưa ra khuyến cáo về nguy cơ sử dụng magnesium sulfate dạng tiêm trên 5-7 ngày để ngăn ngừa chuyển dạ sanh non ở phụ nữ mang thai. Việc chỉ định tiêm magnesium sulfate trên 5-7 ngày cho thai phụ có thể dẫn đến nồng độ calcium máu thấp và các vấn đề về xương cho thai nhi, bao gồm thiếu xương (mỏng xương) và gãy xương. Khoảng thời gian điều trị ngắn nhất của magnesium sulfate tiêm có thể gây hại cho trẻ chưa được biết rõ.
Việc sử dụng magnesium sulfate để ngăn ngừa chuyển dạ sanh non ở phụ nữ mang thai nằm ngoài chỉ định trên thông tin kê toa (off-label), chưa được chấp thuận bởi FDA. Theo FDA, thuốc này được dùng để phòng ngừa co giật trong tiền sản giật, tình trạng thai phụ tăng huyết áp cùng với protein niệu cao, và kiểm soát co giật trong sản giật. Tiền sản giật và sản giật là những biến chứng nguy hiểm đe dọa đến tính mạng thai phụ suốt thời kỳ mang thai. Tiền sản giật có thể dẫn đến sản giật, co giật, trụy tim mạch, suy đa cơ quan, tử vong ở bà mẹ và trẻ em.
Với bằng chứng nồng độ calcium máu thấp và các vấn đề về xương ở thai nhi, nhãn thuốc tiêm magnesium sulfate USP 50% được bổ sung một số thông tin sau:
- Cảnh báo mới về việc sử dụng liên tục magnesium sulfate tiêm trên 5-7 ngày trong thời kỳ mang thai để điều trị chuyển dạ sanh non có thể gây hạ calcium máu và bất thường về xương ở trẻ sơ sinh.
- Mức độ an toàn của magnesium sulfate đối với phụ nữ mang thai thay đổi từ mức phân loại A thành mức phân loại D.
-
- Mức phân loại D nghĩa là có bằng chứng rõ ràng đối với nguy cơ trên bào thai, nhưng những lợi ích tiềm năng từ việc sử dụng thuốc ở phụ nữ mang thai có thể chấp nhận được trong một số tình huống bất chấp rủi ro.
- Mức phân loại A nghĩa là những nghiên cứu có kiểm soát chưa chứng minh đuợc nguy cơ đối với thai nhi trong ba tháng đầu thai kỳ, và không có bằng chứng về nguy cơ trong ba tháng cuối thai kỳ.
3. Việc sử dụng magnesium sulfate tiêm kéo dài trong điều trị chuyển dạ sanh non không được chấp thuận, hiệu quả và độ an toàn của chỉ định này chưa có bằng chứng rõ ràng. Magnesium sulfate tiêm nên được thực hiện bởi các bác sĩ sản khoa có kinh nghiệm khi sử dụng cho thai phụ ngoài các chỉ định được chấp thuận.
Phụ nữ mang thai nên thảo luận với bác sĩ điều trị về khả năng chuyển dạ sanh non, cùng với nguy cơ và lợi ích của bất kỳ phương pháp điều trị nào có thể được sử dụng.
Tài liệu tham khảo:
FDA (2013), Magnesium Sulfate: Drug Safety Communication - Recommendation Against Prolonged Use in Pre-term Labor. Accessed June 10, 2013.
http://www.fda.gov/Safety/MedWatch/SafetyInformation/SafetyAlertsforHumanMedicalProducts/ucm354603.htm
Độc tính trên thận do thuốc là nguyên nhân phổ biến gây ra tổn thương thận cấp tính (AKI) và kháng sinh (KS) là một trong những nhóm thuốc lớn nhất liên quan đến AKI. Cơ chế gây độc tính trên thận do KS bao gồm tổn thương cầu thận, tổn thương hoặc rối loạn chức năng ống thận, tắc nghẽn ống lượn xa do trụ niệu và viêm thận kẽ cấp tính (AIN) do phản ứng quá mẫn loại IV (loại chậm). Các biểu hiện lâm sàng của độc tính trên thận do KS bao gồm hoại tử ống thận cấp (ATN), AIN và hội chứng Fanconi.
Trong 6 tháng đầu năm 2025, Bệnh viện Từ Dũ ghi nhận 204 báo cáo ADR, tăng 1,3 lần so với cùng kỳ năm 2024 (160 báo cáo).
Việc sử dụng hệ thống phóng thích Levonorgestrel trong tử cung (LNG-IUS: Levonorgestrel-releasing intrauterine system) có liên quan đến tăng nguy cơ ung thư vú. Một nghiên cứu ở Đan Mạch ghi nhận 14 trường hợp ung thư vú trên 10.000 phụ nữ tránh thai bằng LNG-IUS so với phụ nữ tránh thai không dùng nội tiết.
Theo kết quả của một nghiên cứu trên JAMA Network Open, tiêm vắc-xin cúm không liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc các kết quả bất lợi trong thời kỳ chu sinh đối với những người mang thai liên tiếp. Các tác giả nghiên cứu cho biết những phát hiện này ủng hộ các khuyến nghị hiện tại cho những người mang thai hoặc những người có thể mang thai trong mùa cúm.
Staphylococcus aureus, một loại vi khuẩn gram dương, là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do nhiễm trùng huyết trên toàn thế giới, với tỷ lệ tử vong từ 15% đến 30% và ước tính có 300.000 ca tử vong mỗi năm.
Các loài thuộc chi Candida là một phần của hệ vi sinh vật thường trú trong âm đạo có khoảng 25% ở phụ nữ, do vậy việc phát hiện nấm không đủ để chẩn đoán bệnh. Ước tính có 75% phụ nữ bị nhiễm nấm candida âm đạo ít nhất một lần trong đời. Nồng độ estrogen và tăng sản xuất glycogen ở âm đạo, tình trạng này xảy ra thường gặp và nghiêm trọng hơn trong thai kỳ. Trong thời kỳ mang thai, bệnh có liên quan đến những kết quả bất lợi trong sản khoa như vỡ ối sớm, chuyển dạ sớm, viêm màng ối, nhiễm nấm candida da ở trẻ sơ sinh và nhiễm trùng hậu sản 1. Bệnh viêm âm hộ-âm đạo do nấm candida là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất có triệu chứng gây ngứa và tiết dịch âm đạo. Biểu hiện của bệnh là tình trạng viêm thường gặp ở các loài nấm Candida với các triệu chứng là ngứa và viêm đỏ.