Thông tin thuốc tháng 01/2021
- 1. Tổng quan
Các thuốc chống nấm/ kháng khuẩn dạng đặt âm đạo thường được lựa chọn nhiều trong điều trị viêm nhiễm phụ khoa bởi tính an toàn, hiệu quả. Tuy nhiên, việc sử dụng thuốc cho phụ nữ trong thời gian mang thai là điều cần hết sức lưu ý. Trong giai đoạn này, lựa chọn thuốc sẽ không những phụ thuộc vào hiệu quả điều trị, phản ứng có hại, mà còn phụ thuộc vào những ảnh hưởng của thuốc lên thai nhi.
Đối với viêm âm hộ/ âm đạo do nấm, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ, Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ đều khuyến cáo sử dụng imidazole tại chỗ (clotrimazole hoặc miconazole) qua đường âm đạo trong bảy ngày [1].
Việc sử dụng các thuốc kháng khuẩn dạng đặt âm đạo với những phối hợp hoạt chất khác nhau trở thành thách thức cho các nhân viên y tế bởi sự thiếu hụt về chứng cứ lâm sàng, các dữ liệu liên quan đến kinh nghiệm sử dụng. Dequalinium chlorid được ghi nhận an toàn và không gây hại trong thời gian mang thai, tuy nhiên dữ liệu còn hạn chế [2]. Metronidazol qua hàng rào nhau thai khá nhanh, nồng độ thuốc ở cuống nhau thai và huyết tương mẹ tương tự nhau. Lượng thuốc hấp thu toàn thân sau khi sử dụng theo đường đặt âm đạo ít hơn nhiều so với đường uống. Tuy nhiên cũng có một số nghiên cứu đã thông báo nguy cơ dị tật thai nhi tăng khi dùng thuốc vào 3 tháng đầu của thai kỳ. Do đó không nên dùng trong thời gian đầu mang thai, trừ khi bắt buộc dùng và cần cân nhắc lợi ích/nguy cơ có hại [3]. Các sản phẩm có chứa neomycin, được cảnh báo có thể gây độc tính ở tai hoặc đi vào máu, không nên dùng trong thời kỳ mang thai, trừ khi có sự chỉ định và theo dõi chặt chẽ của bác sĩ. Dữ liệu về an toàn của nystatin trong thời kỳ mang thai chưa được thiết lập [4].
Cần đánh giá về lợi ích, nguy cơ giữa việc dùng thuốc cho người mẹ và thai nhi. Trong trường hợp cần thiết phải sử dụng, nên lựa chọn thuốc ít ảnh hưởng cho thai nhi, với liều lượng nhỏ nhất có hiệu quả trong thời gian ngắn nhất.
- 2. Thông tin các thuốc chống nấm/ kháng khuẩn dạng đặt âm đạo tại Nhà thuốc bệnh viện Từ Dũ dành cho phụ nữ mang thai (Phụ lục đính kèm)
Tài liệu tham khảo:
- Sexually transmitted diseases treatment guidelines, CDC 2015
- Cơ sở dữ liệu Lexicomp
- Dược thư quốc gia Việt Nam 2018
- Thông tin kê toa sản phẩm
Trong giai đoạn năm 2018-2021, Mạng lưới An toàn Chăm sóc Sức khỏe Quốc gia (NHSN) đã báo cáo rằng 0,4% (n = 1.951) các ca nhiễm trùng mắc phải tại bệnh viện (HAI) ở Hoa Kỳ nguyên nhân do Acinetobacter spp. gây ra. Trong số này có 28-45% không nhạy cảm với kháng sinh carbapenem (tức là trung gian hoặc đề kháng).
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCT), BLING III cung cấp bằng chứng việc sử dụng truyền liên tục (CI) so với truyền ngắt quãng piperacillin/tazobactam và meropenem trên bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Điều này được củng cố bởi một đánh giá tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp (SRMA) của 18 RCT về CI hoặc truyền kéo dài (EI) (thời gian từ 3–4 giờ) các kháng sinh beta-lactam. Thách thức hiện nay là chuyển đổi CI như một tiêu chuẩn chăm sóc cho bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Các cân nhắc chính bao gồm các vấn đề sau:
Các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Alabama tại Birmingham, đã tiến hành phân tích dữ liệu thứ cấp trên đối tượng phụ nữ tăng huyết áp mạn tính trong thai kỳ, so sánh với phương pháp điều trị chính. Tăng huyết áp mạn tính nhẹ trong nghiên cứu được định nghĩa là huyết áp 140-159/90-104 mmHg trước 20 tuần của thai kỳ.
Nhiễm trùng huyết – sepsis - vẫn là một trong những nguyên nhân gây tử vong lớn nhất trên thế giới, Tổ chức Y tế Thế giới ước tính 11 triệu người tử vong mỗi năm do tình trạng này. Các yếu tố chính của việc quản lý sepsis là chẩn đoán sớm, liệu pháp kháng sinh kinh nghiệm sớm và phù hợp, với biện pháp kiểm soát nguồn gây bệnh thích hợp và bảo tồn chức năng các cơ quan.
Sự ra đời của vắc-xin giúp chúng ta chủ động phòng chống các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Tổ chức y tế thế giới ước tính chương trình tiêm chủng hiện nay giúp ngăn ngừa 3,5-5 triệu ca tử vong mỗi năm do các bệnh như bạch hầu, uốn ván, ho gà, cúm và sởi [2].
Phòng ngừa suy nhược, mệt mỏi, đau nhức:
Hoạt động mỗi ngày đi bộ ngắn, tập các bài tập nhẹ nhàng. Giữ tinh thần ổn định
Chế độ ăn hợp lý trao đổi thêm với bác sĩ về dinh dưỡng bổ sung (thực phẩm giàu protein như thịt, cá, phô mai, sữa chua...). Uống nhiều nước, trừ khi có hướng dẫn khác.
Chườm khăn lạnh nếu có nhức mỏi, đau cơ.