Thông tin thuốc tháng 02/2021
- 1. Tổng quan số lượng báo cáo ADR của Bệnh viện Từ Dũ
Năm 2020, Bệnh viện đã thực hiện 368 báo cáo ADR, tăng 3,7% so với năm 2019 (355 báo cáo). Bệnh viện Từ Dũ được trung tâm DI & ADR Quốc gia xếp hạng là đơn vị có số lượng báo cáo ADR nhiều nhất trên các cơ sở khám chữa bệnh toàn quốc.
Do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, số lượt khám cũng như số lượng bệnh nhân nội trú của Bệnh viện giảm, tuy nhiên số báo cáo ADR vẫn tăng cho thấy các Nhân viên y tế tại Bệnh viện đã quan tâm hơn đến việc theo dõi, chăm sóc điều trị, báo cáo các trường hợp xảy ra ADR.

Nhận xét: Số báo cáo ADR tăng đều từ năm 2016-2020. Bệnh viện đã triển khai việc báo cáo ADR trực tuyến từ năm 2017 giúp cho việc báo cáo ADR từ các khoa lâm sàng đơn giản, thuận tiện hơn. Năm 2020, Bệnh viện tiếp tục thực hiện cải tiến phần mềm ADR giúp cho việc quản lý và lưu trữ các báo cáo ADR tại các khoa, phòng được thực hiện trên phần mềm, tiết kiệm thời gian trong công tác hành chính liên quan đến theo dõi và báo cáo ADR. Ngoài ra, trong năm 2020, 100% tất cả các báo cáo ADR đã được gửi về trung tâm DI&ADR qua email, tất cả đều được gửi trong thời hạn theo quy định (tùy theo mức độ nghiêm trọng của phản ứng) thay thế cho việc gửi qua đường bưu điện trước đây.

Nhận xét: Số báo cáo ADR tăng đỉnh điểm từ tháng 4 đến tháng 7, thấp hơn ở các tháng còn lại.
2.Phân bố số báo cáo ADR theo khoa:

Nhận xét: Trong năm 2020, khoa Dược đã nhận được báo cáo ADR từ nhiều khoa lâm sàng hơn (15 khoa trong năm 2020 so với 11 khoa trong năm 2019) và số lượng báo cáo từ các khoa phòng cũng được phân bố đồng đều hơn. Khoa GMHS có tỷ lệ báo cáo ADR tăng nhiều nhất trong năm 2020 so với năm 2019 – gần 60% (61 báo cáo ADR trong năm 2020 so với 38 báo cáo ADR trong năm 2019). Khoa GMHS cũng là khoa có số lượng báo cáo ADR cao nhất trong năm 2020, chiếm tỷ lệ 16,5%. Tiếp theo là khoa Sản N1 và Sản N2 với 53 báo cáo ADR mỗi khoa, chiếm tỷ lệ 14,4%. Tỷ lệ này tương ứng với số lượng bệnh tại các khoa. Việc tăng số lượng báo cáo ADR góp phần xây dựng cơ sở dữ liệu để đánh giá lợi ích, nguy cơ của thuốc, tăng cường việc sử dụng thuốc an toàn, hợp lý, hiệu quả.
3. Phân bố báo cáo ADR theo người báo cáo
|
|
Số báo cáo ADR |
Tỷ lệ (%) |
|
Hộ sinh |
261 |
70,9 |
|
Bác sĩ |
96 |
26,1 |
|
Dược sĩ |
11 |
3,0 |
Nhận xét: Đối tượng báo cáo ADR chủ yếu vẫn là Hộ sinh với 261 báo cáo, duy trì ở tỷ lệ 70,9%, tiếp theo là Bác sĩ với 96 báo cáo chiếm tỷ lệ 26,1%. Năm 2020, số lượng báo cáo ADR thực hiện bởi Dược sĩ tăng (10 báo cáo ADR) so với cùng kỳ năm 2019 (3 báo cáo ADR).
4. Phân bố số báo cáo ADR theo nhóm thuốc
|
STT |
Nhóm thuốc |
Số báo cáo ADR |
Tỷ lệ (%) |
|
1 |
Kháng sinh |
165 |
44,8 |
|
2 |
Giảm đau hạ sốt |
146 |
39,7 |
|
3 |
Thuốc thúc đẻ |
16 |
4,3 |
|
4 |
Thuốc cầm máu sau đẻ |
10 |
2,7 |
|
5 |
Đa tác nhân, chưa xác định được nguyên nhân gây dị ứng |
7 |
1,9 |
|
6 |
Thuốc điều trị ung thư |
7 |
1,9 |
|
7 |
Thuốc khác |
7 |
1,9 |
|
8 |
Thuốc gây tê, gây mê |
4 |
1,1 |
|
9 |
Thuốc chống co thắt |
3 |
0,8 |
|
10 |
Thuốc tác dụng lên quá trình đông máu |
3 |
0,8 |
|
|
Tổng |
368 |
100 |
Nhận xét: Kháng sinh là nhóm thuốc có tỷ lệ báo cáo ADR nhiều nhất với 44,8% (165 báo cáo ADR), trong đó thuốc Cefovidi (Cefotaxim) chiếm 40,0% tổng số báo cáo ADR liên quan đến kháng sinh. Tiếp theo là nhóm thuốc giảm đau hạ sốt chiếm tỷ lệ 39,7% (146 báo cáo ADR), trong đó thuốc Elaria (Diclofenac) chiếm 51,4%; Voltaren (Diclofenac) chiếm 28,1%. Tỷ lệ này phù hợp với việc các thuốc này được chỉ định thường xuyên nhất tại Bệnh viện.
5. Phân bố các báo cáo ADR theo tiền căn dị ứng thuốc

Nhận xét:
Tỷ lệ bệnh nhân có tiền căn dị ứng thuốc trên số báo cáo ADR là 24,4% (92 báo cáo ADR), tăng so với năm 2019 là 18,8%.
Phân tích các báo cáo ADR có tiền căn dị ứng thuốc cho thấy có đến 41,5% người bệnh cung cấp thông tin là dị ứng thuốc không rõ loại.
6. Phương hướng thực hiện công tác theo dõi và báo cáo ADR trong năm 2021
- Tiếp tục phổ biến, tập huấn để tăng số lượng, chất lượng báo cáo ADR, thống nhất cách lưu trữ quản lý các báo cáo ADR tại khoa lâm sàng.
- Giám sát ngẫu nhiên các trường hợp sử dụng thuốc kháng dị ứng tại các khoa phòng.
- Xây dựng hướng dẫn khai thác thông tin dị ứng thuốc.
Kháng sinh chiếm gần 80% tổng số đơn thuốc được kê trong thời kỳ mang thai, và khoảng 20%–25% phụ nữ sẽ sử dụng kháng sinh trong thai kỳ. Các bệnh nhiễm trùng phổ biến nhất bao gồm nhiễm trùng đường tiết niệu (UTIs), nhiễm trùng đường sinh dục, nhiễm trùng da - mô mềm và nhiễm trùng đường hô hấp. Việc sử dụng kháng sinh trong thai kỳ luôn cần được cân nhắc giữa nguy cơ và lợi ích.
Lạc nội mạc tử cung là bệnh lý viêm mạn tính phụ thuộc estrogen, ảnh hưởng khoảng 10% phụ nữ trong độ tuổi sinh sản.
Bệnh đặc trưng bởi sự hiện diện của mô nội mạc tử cung ngoài buồng tử cung, gây đau bụng kinh, đau khi giao hợp, đau vùng chậu kéo dài và vô sinh, làm giảm đáng kể chất lượng cuộc sống.
Điều trị cần được cá thể hóa, tùy theo mức độ triệu chứng, vị trí tổn thương và nhu cầu sinh sản. Hướng dẫn hiện nay khuyến nghị kết hợp giữa điều trị nội khoa, ngoại khoa và hỗ trợ không dùng thuốc.
Phản ứng có hại của thuốc (ADR) là vấn đề thường gặp trong thực hành lâm sàng và có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ, tính mạng người bệnh nếu không được nhận biết sớm và xử trí kịp thời.
Acetaminophen (paracetamol) đã được sử dụng để hạ sốt và giảm đau từ nhẹ đến trung bình. Thuốc có sẵn ở dạng đơn chất hoặc kết hợp với các thuốc khác để điều trị các triệu chứng cảm lạnh, cúm, đau đầu và viêm xương khớp. Tên thương mại phổ biến là Tylenol. Theo Tạp chí Wall Street Journal đưa tin, Bộ trưởng Y tế Hoa Kỳ dự định thông tin về mối liên quan giữa chứng tự kỷ và việc phơi nhiễm với thuốc giảm đau và hạ sốt Tylenol trước khi sinh, như sau:
Tiêm chủng cho mẹ giúp bảo vệ cả mẹ và thai nhi khỏi một số bệnh nhiễm trùng. Lý tưởng nhất là tiêm chủng trước khi thụ thai, nhưng trong một số trường hợp, việc tiêm chủng trong thai kỳ cũng được chỉ định.
Nhiều bằng chứng cho thấy rằng, việc sử dụng kháng sinh ở bệnh nhân tiên lượng nặng bị suy thận cấp (STC) thường không đạt được mục tiêu dược lực học và tỉ lệ tử vong cao liên quan đến nhiễm trùng. Do đó, bài viết này đánh giá những thay đổi thông số về dược động học và dược lực học trên bệnh nhân nặng có STC và đề xuất những giải pháp để có thể tối ưu liều dùng kháng sinh trên những bệnh nhân này.



