Thông tin thuốc tháng 02/2022
Tổng quan số lượng báo cáo ADR của Bệnh viện Từ Dũ
Nhận xét: Số báo cáo ADR tại Bệnh viện Từ Dũ tăng đều từ năm 2016 đến năm 2020. Tuy nhiên, năm 2021, Bệnh viện đã thực hiện 267 báo cáo ADR, giảm 27,4% so với năm 2020 (368 báo cáo ADR) do lượng bệnh giảm dưới sự ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, xếp hạng 7 trong số các Bệnh viện trên toàn quốc có số lượng báo cáo ADR nhiều nhất.
Nhận xét: Số báo cáo ADR trong năm 2021 theo từng tháng tương ứng với số lượng bệnh nhân nội trú của từng tháng.
Phân bố số báo cáo ADR theo khoa
Nhận xét: Trong năm 2021, số khoa lâm sàng có báo cáo ADR tăng: 16 khoa trong năm 2021 so với 14 khoa trong năm 2020. Khoa Sản A có tỷ lệ báo cáo ADR tăng nhiều nhất so với năm 2020 (254%). Khoa GMHS cũng có số lượng báo cáo ADR tăng đáng kể so với năm 2020 (153%) và là khoa có số lượng báo cáo ADR cao nhất trong năm 2021. Khoa Phụ và khoa Sản H có số lượng báo cáo ADR giảm nhiều nhất so với năm 2020, lần lượt là 84,4% và 72,2%. Hầu hết các khoa còn lại đều có tỷ lệ báo cáo ADR giảm 50 - 60% so với năm 2020.
Phân bố báo cáo ADR theo người báo cáo
|
Số báo cáo ADR |
Tỷ lệ (%) |
Hộ sinh |
149 |
55,8 |
Bác sĩ |
114 |
42,7 |
Dược sĩ |
4 |
1,5 |
Nhận xét: Đối tượng báo cáo ADR chủ yếu vẫn là Hộ sinh với 149 báo cáo, chiếm tỷ lệ 55,8%. Tuy nhiên, ở năm 2021, số lượng báo cáo ADR được thực hiện bởi Bác sĩ tăng 16,6% (năm 2020 tỷ lệ báo cáo ADR được thực hiện bởi Bác sĩ là 26,1% - 96 báo cáo ADR) và đa phần được thực hiện bởi Bác sĩ ở khoa GMHS. Việc này cho thấy các Bác sĩ đã quan tâm hơn và thuần thục thực hiện báo cáo ADR trực tuyến theo quy trình của Bệnh viện.
Phân bố số báo cáo ADR theo nhóm thuốc
STT |
Nhóm thuốc |
Số báo cáo ADR |
Tỷ lệ (%) |
1 |
Kháng sinh |
142 |
53,2 |
2 |
Giảm đau, hạ sốt |
92 |
34,5 |
3 |
Thuốc thúc đẻ, cầm máu sau đẻ |
18 |
6,7 |
4 |
Đa tác nhân, chưa xác định được nguyên nhân gây dị ứng |
7 |
2,6 |
5 |
Thuốc điều trị ung thư |
2 |
0,7 |
6 |
Vaccine |
2 |
0,7 |
7 |
Thuốc chống co thắt |
1 |
0,4 |
8 |
Thuốc điều trị thiếu máu |
1 |
0,4 |
9 |
Thuốc giãn cơ, giải giãn cơ |
1 |
0,4 |
10 |
Thuốc tác dụng lên quá đông máu |
1 |
0,4 |
|
Tổng |
267 |
100 |
Nhận xét: Kháng sinh là nhóm thuốc có tỷ lệ báo cáo ADR nhiều nhất, chiếm tỷ lệ 53,2% (142 báo cáo). Trong đó, thuốc Cefovidi 1g (Cefotaxim) và Imetoxim 1g (Cefotaxim) chiếm tỷ lệ lần lượt là 33,1% (47 báo cáo) và 16,9% (24 báo cáo). Thuốc Vicizolin 1g (Cefazolin) chiếm tỷ lệ 14,0% (20 báo cáo).
Tiếp theo là nhóm thuốc giảm đau hạ sốt chiếm tỷ lệ 34,5% (92 báo cáo), trong đó thuốc Diclofenac 100mg (Diclofenac) và Elaria 100mg (Diclofenac) có tỷ lệ báo cáo ADR giống nhau là 35,7% (33 báo cáo). Có 9 báo cáo ADR đối với thuốc Paracetamol 500mg (Paracetamol), chiếm tỷ lệ 9,8%.
Tỷ lệ này phù hợp với số lượng các thuốc được chỉ định thường xuyên tại Bệnh viện.
Phân bố các báo cáo ADR theo tiền căn dị ứng thuốc
Nhận xét:
Tỷ lệ bệnh nhân có tiền căn dị ứng thuốc trên số báo cáo ADR là 14,2% (38 báo cáo ADR), giảm so với năm 2020 (tỷ lệ 24,4%). Kết quả này cho thấy việc khai thác tiền sử dị ứng thuốc với người bệnh đã được chú trọng, quan tâm hơn.
Phân loại các trường hợp xảy ra ADR trên bệnh nhân có tiền căn dị ứng thuốc, đa phần các ADR xảy ra khi người bệnh khai có tiền căn dị ứng thuốc không rõ loại (chiếm tỷ lệ 45%). Có 6 báo cáo ADR xảy ra trên bệnh nhân có tiền căn dị ứng kháng sinh.
Khoa Dược cũng đã xây dựng hướng dẫn khai thác thông tin dị ứng thuốc, cập nhật quy trình báo cáo ADR nhằm cải thiện việc sử dụng thuốc trên bệnh nhân có tiền căn dị ứng thuốc trong năm 2021.
Phương hướng thực hiện công tác theo dõi và báo cáo ADR trong năm 2022
- Tiếp tục phổ biến, tập huấn để tăng số lượng và chất lượng báo cáo ADR, thống nhất cách lưu trữ quản lý các báo cáo ADR tại khoa lâm sàng.
- Tập huấn hướng dẫn khai thác thông tin dị ứng thuốc, khuyến khích các khoa lâm sàng phối hợp nhiều hơn với dược lâm sàng trên các bệnh nhân có tiền căn dị ứng thuốc.
- Giám sát ngẫu nhiên về việc thực hiện báo cáo ADR tại các khoa phòng đối với các trường hợp sử dụng thuốc kháng dị ứng.
Sốt là triệu chứng phổ biến trong thực hành lâm sàng hàng ngày và một số lượng lớn người bệnh nhập viện do sốt. Nhiều người bệnh được dùng thuốc kháng sinh, thuốc kháng vi-rút, thuốc kháng nấm hoặc thuốc kháng ký sinh trùng, nếu coi nhiễm trùng là nguyên nhân chính. Tuy nhiên, thuốc được dùng để điều trị có thể là nguyên nhân tiềm ẩn gây sốt trong bối cảnh như vậy
Năm 2024, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) đã ban hành hướng dẫn về việc sử dụng doxycyclin dự phòng sau phơi nhiễm (doxy-PEP) để phòng ngừa bệnh nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục (STI). Dự phòng sau phơi nhiễm là một chiến lược hoá trị dự phòng, trong đó thuốc được dùng sau khi có khả năng phơi nhiễm để ngăn ngừa nhiễm trùng. Đây là một chiến lược phòng ngừa phổ biến và hiệu quả đối với HIV và các bệnh nhiễm trùng khác, chẳng hạn như bệnh dại và uốn ván. Doxycyclin là một kháng sinh nhóm tetracyclin phổ rộng dung nạp tốt và được khuyến cáo điều trị bệnh chlamydia và là phương pháp thay thế trong điều trị giang mai ở những bệnh nhân không có thai.
Việc bẻ, nghiền viên nén không bao, bao phim, bao đường hoặc mở viên nang giải phóng dược chất tức thì không làm thay đổi sinh khả dụng của thuốc và giúp bệnh nhân tuân thủ điều trị tốt hơn
Trẻ em không phải người lớn thu nhỏ. Các yếu tố dược động học ở trẻ sơ sinh thay đổi liên tục do sự phát triển nhanh về sinh lý. Tiêm tĩnh mạch thường được sử dụng trong điều trị cho trẻ sơ sinh, đặc biệt khi trẻ đang điều trị tại đơn vị chăm sóc tích cực. Khi tiêm tĩnh mạch, hiệu quả gần như tức thời. Hầu hết các loại thuốc tiêm tĩnh mạch cho trẻ sơ sinh có những yêu cầu riêng về độ pha loãng và/hoặc tốc độ truyền.
Trong giai đoạn năm 2018-2021, Mạng lưới An toàn Chăm sóc Sức khỏe Quốc gia (NHSN) đã báo cáo rằng 0,4% (n = 1.951) các ca nhiễm trùng mắc phải tại bệnh viện (HAI) ở Hoa Kỳ nguyên nhân do Acinetobacter spp. gây ra. Trong số này có 28-45% không nhạy cảm với kháng sinh carbapenem (tức là trung gian hoặc đề kháng).
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCT), BLING III cung cấp bằng chứng việc sử dụng truyền liên tục (CI) so với truyền ngắt quãng piperacillin/tazobactam và meropenem trên bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Điều này được củng cố bởi một đánh giá tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp (SRMA) của 18 RCT về CI hoặc truyền kéo dài (EI) (thời gian từ 3–4 giờ) các kháng sinh beta-lactam. Thách thức hiện nay là chuyển đổi CI như một tiêu chuẩn chăm sóc cho bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Các cân nhắc chính bao gồm các vấn đề sau: