Thông tin thuốc tháng 03/2018: Tổng kết báo cáo ADR năm 2017 tại bệnh viện Từ Dũ
Tổng số báo cáo ADR trong năm 2017 tại Bệnh viện Từ Dũ từ các khoa phòng là
275 báo cáo, tăng 7,6% so với số lượng báo cáo ADR năm 2016 (254 báo cáo), là một trong 10 bệnh viện báo cáo ADR nhiều nhất năm 2017 trên cả nước.

Số lượng báo cáo ADR từ năm 2010 đến năm 2017
1.Phân bố số lượng báo cáo ADR theo tháng:

Nhận xét:
Số lượng báo cáo ADR phân bố tương đối đều giữa các tháng, trung bình 23 báo cáo/tháng, cao hơn năm 2016 (20 báo cáo/tháng), tập trung nhiều hơn vào tháng 11 với 29 báo cáo chiếm tỷ lệ 10,5%. Số lượng báo cáo ADR nhận được ít nhất vào tháng 6 với 18 báo cáo chiếm tỷ lệ 6,5%.
2.Phân bố số lượng báo cáo ADR theo Khoa:

Nhận xét:
Số lượng báo cáo ADR từ khoa GMHS cao nhất với 40 báo cáo chiếm tỷ lệ 14,5%, tiếp theo là khoa Sản N2 và Khoa Sanh với 39 báo cáo chiếm tỷ lệ 14,2%, Khoa Sản N1 với 23 báo cáo chiếm tỷ lệ 8,4%. Đây là các Khoa thực hiện tốt việc báo cáo ADR kịp thời nhằm cung cấp thông tin về các phản ứng có hại của thuốc về Trung tâm ADR Quốc Gia.
Trong năm 2017 những khoa không có báo cáo ADR thì trong năm 2017 đã thực hiện tốt việc theo dõi và báo cáo ADR như khoa UBPK (10 báo cáo), phòng khám (01 báo cáo)
Khoa không có báo cáo ADR trong năm 2017 là khoa Sơ sinh
3. Phân bố số báo cáo ADR theo người báo cáo
|
Số báo cáo ADR |
Tỷ lệ |
Bác sĩ |
98 |
35,6% |
Dược sĩ |
23 |
8,3% |
HS |
154 |
56,1% |
Nhận xét:
Đối tượng báo cáo ADR năm 2017 chủ yếu là Hộ sinh với 154 báo cáo chiếm tỷ lệ 56,1% có tăng so với năm 2016 (123 báo cáo), Bác sĩ với 98 báo cáo chiếm tỷ lệ 35,6%, có giảm so với năm 2016 (106 báo cáo), tiếp theo là Dược sĩ với 23 báo cáo chiếm tỷ lệ 8,3% có tăng so với năm 2016 (12 báo cáo)
4. Phân bố số báo cáo ADR theo nhóm thuốc
STT |
Nhóm thuốc |
Số báo cáo ADR |
Tỷ lệ |
1 |
Kháng sinh |
146 |
53,1% |
2 |
Thuốc giảm đau |
83 |
30,2% |
3 |
Thuốc gây mê, tê |
9 |
3,3% |
4 |
Thuốc ung thư |
8 |
2,9% |
5 |
Thuốc đặt phụ khoa |
6 |
2,2% |
6 |
Oxytocin |
4 |
1,5% |
7 |
Thuốc khác |
19 |
6,8% |
Nhận xét:
Kháng sinh là nhóm thuốc có tỷ lệ báo cáo ADR nhiều nhất với 146 báo cáo chiếm tỷ lệ 53,1%, tăng so với năm 2016 (128 báo cáo), tiếp theo là nhóm thuốc giảm đau với 83 báo cáo chiếm tỷ lệ 30,2%, tăng so với năm 2016 (75 báo cáo)
5. Phân bố số lượng báo cáo ADR theo cơ địa bệnh nhân

Nhận xét:
Số báo cáo ADR trên bệnh nhân không có tiền căn dị ứng thuốc là 222 báo cáo chiếm tỷ lệ 80,7%, tăng so với năm 2016 (tăng 18%). Số báo cáo ADR trên bệnh nhân có tiền căn dị ứng thuốc là 53 báo cáo chiếm tỷ lệ 19,3%, giảm so với năm 2016 (giảm 10%). Điều này thể hiện sự thận trọng của nhân viên y tế đối với những bệnh nhân có tiền căn dị ứng thuốc nên tỷ lệ xảy ra ADR trên nhóm bệnh nhân này giảm so với năm 2016.
6. Những thuốc được báo cáo nhiều nhất
Các thuốc nghi ngờ gây phản ứng có hại xuất hiện nhiều nhất trong các báo cáo ADR thuộc 2 nhóm chính là:
- Nhóm thuốc kháng sinh (128 báo cáo) với đại diện là Cefotaxim, Metronidazol trong đó Cefotaxim chiếm tỷ lệ cao nhất với 50% (64 báo cáo)
- Nhóm thuốc kháng viêm giảm đau (83 báo cáo) với đại diện là Diclofenac, Paracetamol trong đó Diclofenac chiếm tỷ lệ cao nhất với 79,5% (66 báo cáo)
Tài liệu: Bảng thống kê báo cáo ADR năm 2017 của Đơn vị Thông tin thuốc
Probiotics được định nghĩa là “các vi sinh vật sống, khi được đưa vào cơ thể với số lượng đủ, sẽ mang lại lợi ích cho sức khỏe của vật chủ”. Các chủng vi khuẩn tạo axit lactic là quan trọng nhất trong thực phẩm và dinh dưỡng, chủng thuộc chi Lactobacillus và Bifidobacterium là những probiotic được sử dụng phổ biến nhất, ngoài ra còn kể đến các chi Bacillus, Streptococcus, Enterococcus, Saccharomyces và Escherichia coli
- Bệnh viện đã thực hiện 378 báo cáo ADR, giảm 7,9% so với năm 2023 (408 báo cáo), tăng 14,2% so với năm 2022 (331 báo cáo).
- Số lượng báo cáo ADR ngoại trú là 18 báo cáo, giảm 3,6 lần so với năm 2023 (66 báo cáo).
- Bệnh viện Từ Dũ được Trung tâm DI&ADR quốc gia xếp hạng 8/991 cơ sở khám chữa bệnh có hoạt động theo dõi ADR hiệu quả trong báo cáo tổng kết ADR quốc gia vào tháng 9/2024.
Mirvetuximab soravtansine-gynx đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt điều trị cho bệnh nhân trưởng thành mắc ung thư biểu mô buồng trứng, ống dẫn trứng, hoặc ung thư phúc mạc nguyên phát dương tính với thụ thể folat alpha (FRα), kháng hóa trị, là những bệnh nhân đã trải qua 3 liệu trình điều trị trước đó. Theo các chuyên gia, bệnh nhân mắc các loại ung thư này thường được phát hiện khi bệnh đã ở giai đoạn muộn, trải qua phẫu thuật và sau đó được điều trị bằng phác đồ hóa trị có platinum nhưng có thể trở nên kháng thuốc.
Kháng sinh (KS) phổ rộng được xem như “thần dược” để điều trị các bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng hoặc đe dọa tính mạng khi tác nhân gây bệnh chưa được xác định. Mục đích sử dụng KS phổ rộng nhằm bao phủ nhiều loại tác nhân vi khuẩn gram dương và gram âm, bao gồm cả các tác nhân kháng thuốc trong khi chờ kết quả nuôi cấy. Tuy nhiên, việc sử dụng bừa bãi các KS phổ rộng cũ và mới đã góp phần đáng kể vào sự gia tăng tình trạng kháng kháng sinh (AMR) – một vấn đề sức khỏe toàn cầu đáng lưu ý.
Những dữ kiện của một nghiên cứu tiền lâm sàng cho thấy: đái tháo đường thai kỳ (ĐTĐTK) có thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng và tử vong ở trẻ sơ sinh nguyên nhân do liên cầu khuẩn nhóm B (GBS). Có nhiều lý do như: thay đổi hệ vi sinh vật âm đạo, giảm đáp ứng miễn dịch và quá trình điều hoà thích nghi của vi khuẩn.
Tiền sản giật là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong mẹ. Bệnh lý tiền sản giật có liên quan đến sự xâm lấn tế bào nuôi nhau thai và sự tái cấu trúc động mạch xoắn tử cung. Với đặc tính kháng viêm, aspirin được giả thuyết rằng có thể cải thiện sự bám nhau giúp ngăn ngừa tiền sản giật. Vì vậy, spirin liều thấp được khuyến cáo sử dụng để dự phòng tiền sản giật trong thai kỳ. Mặt khác, aspirin cũng được chỉ định cho các trường hợp thai giới hạn tăng trưởng, sinh non, thai lưu.