Thông tin thuốc tháng 03/2020
- 1. Khuyến cáo của WHO về sử dụng thuốc co hồi tử cung phòng ngừa băng huyết sau sinh (BHSS)
|
Ngữ cảnh |
Khuyến cáo |
|
Hiệu quả và tính an toàn của các thuốc co hồi tử cung dùng trong phòng ngừa BHSS |
WHO khuyến cáo sử dụng thuốc co hồi tử cung vào giai đoạn 3 của chuyển dạ nhằm phòng ngừa BHSS trong tất cả các ca sinh. WHO khuyến cáo sử dụng một trong những thuốc co hồi tử cung sau đây:
|
|
Lựa chọn thuốc co hồi tử cung phòng ngừa BHSS |
Oxytocin vẫn là thuốc được khuyến cáo là lựa chọn đầu tay để phòng ngừa BHSS trong mọi ca sanh. Các cơ sở y tế không có oxytocin hoặc không đảm bảo chất lượng oxytocin có thể sử dụng các thuốc co hồi tử cung đường tiêm khác (carbetocin, ergometrine/methylergometrine, phối hợp oxytocin và ergometrine liều cố định) hoặc misoprostol đường uống với mục đích phòng ngừa BHSS. Cần loại trừ các trường hợp tăng huyết áp trước khi sử dụng ergometrine/methylergometrine và dạng phối hợp oxytocin và ergometrine liều cố định. Tại cơ sở không có nhân viên y tế được đào tạo để tiêm thuốc co hồi tử cung, nhân viên chăm sóc sức khỏe cộng đồng được khuyến cáo rằng có thể sử dụng misoprostol đường uống (400μg hoặc 600μg). WHO không khuyến cáo sử dụng các thuốc prostaglandins đường tiêm (carboprost, sulprostone) để phòng ngừa BHSS. Theo phân tích gộp từ Cochrane, bằng chứng với độ tin cậy thấp cho thấy misoprostol, prostaglandins TB, và ergometrine có tác dụng tương đương với oxytocin trong phòng ngừa BHSS > 500ml. |
- Oxytocin: Oxytocin hoặc Vinphatoxin - Carbetocin: Duratocin - Misoprostol: Heraprostol - Methylergometrine: Vingomin hoặc methylergometrine maleate injection |
|
- 2. Sơ đồ sử dụng thuốc co hồi tử cung phòng ngừa BHSS theo khuyến cáo của WHO
.jpg)
Tài liệu tham khảo
- Vogel JP, Williams M, Gallos I, et alWHO recommendations on uterotonics for postpartum haemorrhage prevention: what works, and which one?BMJ Global Health 2019;4:e001466.
- Gallos ID, Papadopoulou A, Man R, Athanasopoulos N, Tobias A, Price MJ, Williams MJ, Diaz V, Pasquale J, Chamillard M, Widmer M, Tunçalp Ö, Hofmeyr GJ, Althabe F, Gülmezoglu AM, Vogel JP, Oladapo OT, Coomarasamy A. Uterotonic agents for preventing postpartum haemorrhage: a network meta‐analysis. Cochrane Database of Systematic Reviews 2018, Issue 12. Art. No.: CD011689. DOI: 10.1002/14651858.CD011689.pub3.
TỔ TRƯỞNG ĐƠN VỊ THÔNG TIN THUỐC HỘI ĐỒNG THUỐC VÀ ĐIỀU TRỊ
Kháng sinh chiếm gần 80% tổng số đơn thuốc được kê trong thời kỳ mang thai, và khoảng 20%–25% phụ nữ sẽ sử dụng kháng sinh trong thai kỳ. Các bệnh nhiễm trùng phổ biến nhất bao gồm nhiễm trùng đường tiết niệu (UTIs), nhiễm trùng đường sinh dục, nhiễm trùng da - mô mềm và nhiễm trùng đường hô hấp. Việc sử dụng kháng sinh trong thai kỳ luôn cần được cân nhắc giữa nguy cơ và lợi ích.
Lạc nội mạc tử cung là bệnh lý viêm mạn tính phụ thuộc estrogen, ảnh hưởng khoảng 10% phụ nữ trong độ tuổi sinh sản.
Bệnh đặc trưng bởi sự hiện diện của mô nội mạc tử cung ngoài buồng tử cung, gây đau bụng kinh, đau khi giao hợp, đau vùng chậu kéo dài và vô sinh, làm giảm đáng kể chất lượng cuộc sống.
Điều trị cần được cá thể hóa, tùy theo mức độ triệu chứng, vị trí tổn thương và nhu cầu sinh sản. Hướng dẫn hiện nay khuyến nghị kết hợp giữa điều trị nội khoa, ngoại khoa và hỗ trợ không dùng thuốc.
Phản ứng có hại của thuốc (ADR) là vấn đề thường gặp trong thực hành lâm sàng và có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ, tính mạng người bệnh nếu không được nhận biết sớm và xử trí kịp thời.
Acetaminophen (paracetamol) đã được sử dụng để hạ sốt và giảm đau từ nhẹ đến trung bình. Thuốc có sẵn ở dạng đơn chất hoặc kết hợp với các thuốc khác để điều trị các triệu chứng cảm lạnh, cúm, đau đầu và viêm xương khớp. Tên thương mại phổ biến là Tylenol. Theo Tạp chí Wall Street Journal đưa tin, Bộ trưởng Y tế Hoa Kỳ dự định thông tin về mối liên quan giữa chứng tự kỷ và việc phơi nhiễm với thuốc giảm đau và hạ sốt Tylenol trước khi sinh, như sau:
Tiêm chủng cho mẹ giúp bảo vệ cả mẹ và thai nhi khỏi một số bệnh nhiễm trùng. Lý tưởng nhất là tiêm chủng trước khi thụ thai, nhưng trong một số trường hợp, việc tiêm chủng trong thai kỳ cũng được chỉ định.
Nhiều bằng chứng cho thấy rằng, việc sử dụng kháng sinh ở bệnh nhân tiên lượng nặng bị suy thận cấp (STC) thường không đạt được mục tiêu dược lực học và tỉ lệ tử vong cao liên quan đến nhiễm trùng. Do đó, bài viết này đánh giá những thay đổi thông số về dược động học và dược lực học trên bệnh nhân nặng có STC và đề xuất những giải pháp để có thể tối ưu liều dùng kháng sinh trên những bệnh nhân này.



