Thông tin thuốc tháng 04/2012
Nội dung: Tổng kết công tác báo cáo ADR năm 2010
- Thông tin chung về báo cáo ADR từ các cơ sở điều trị
- Kết quả thẩm định và phân tích báo cáo ADR
- Một số nhận xét và kết luận
1. Thông tin chung về báo cáo ADR từ các cơ sở điều trị
- Tổng số báo cáo ADR nhận được trong năm 2010 từ các đơn vị y tế thuộc các tỉnh thành trong cả nước: 1.807 báo cáo
- Số lượng báo cáo nhận được từ năm 2003 đến hết năm 2010 được thể hiện trong hình 1.
Hình 1. Số lượng báo cáo ADR (2003-2010)
- Đối tượng gửi báo cáo chủ yếu là bác sĩ (68%), tiếp theo là dược sĩ (12,4%), điều dưỡng và nữ hộ sinh (12,7%)
- Phân bố về giới của bệnh nhân trong báo cáo ADR :
Nam : 45,6%; Nữ: 53,3%
(Không có thông tin : 1,1%)
2. Kết quả thẩm định và phân tích báo cáo ADR
2.1. Thông tin về mối quan hệ nhân quả giữa thuốc nghi ngờ và ADR
Mối quan hệ nhân quả giữa thuốc và ADR được hội đồng chuyên gia quy kết theo thang đánh giá của Tổ chức Y tế thế giới (WHO). Trong đó, các ADR ở 3 mức độ cao nhất (“chắc chắn”, “có khả năng” và “có thể”) chiếm 91,7% tổng số ADR được thẩm định.
Bảng 1. Thông tin về quy kết quan hệ ADR-thuốc
STT |
Mức quy kết |
Số lượng |
Tỷ lệ (%) |
01 |
Chắc chắn |
1303 |
31,4 |
02 |
Có khả năng |
2029 |
48,8 |
03 |
Có thể |
478 |
11,5 |
04 |
Không chắc chắn |
77 |
1,9 |
05 |
Chưa phân loại được |
14 |
0,3 |
06 |
Không thể phân loại được |
227 |
5,5 |
07 |
Tương tác thuốc |
2 |
0,0 |
08 |
Trường hợp khác |
26 |
0,6 |
Tổng |
4156 |
100,0 |
2.2. Phân loại báo cáo ADR theo đường dùng thuốc
Phản ứng có hại xảy ra với hầu hết các đường dùng thuốc. Tuy nhiên, phản ứng có hại xảy ra khi dùng thuốc bằng đường uống chiếm tỷ lệ cao hơn hẳn các đường dùng khác (45,46%).
Phản ứng có hại xảy ra khi dùng thuốc bằng đường tiêm, truyền tĩnh mạch cũng chiếm tỷ lệ khá cao (34,41%).
2.3. Phân loại báo cáo ADR theo nhóm dược lý
2.4. Các thuốc nghi ngờ gây ra ADR được báo cáo nhiều nhất
STT |
Tên thuốc |
Tổng |
Tỷ lệ (%) |
01 |
Streptomycin |
168 |
8,43 |
02 |
Cefotaxim |
161 |
8,07 |
03 |
Ceftriaxon |
135 |
6,77 |
04 |
Pyrazinamid |
98 |
4,91 |
05 |
Rifampicin |
90 |
4,51 |
06 |
Paracetamol |
61 |
3,06 |
07 |
Amoxicillin |
45 |
2,26 |
08 |
Cefalexin |
44 |
2,21 |
09 |
Ceftazidim |
44 |
2,21 |
10 |
Diclofenac |
43 |
2,16 |
Các thuốc nghi ngờ gây phản ứng có hại xuất hiện nhiều nhất thuộc 3 nhóm chính: nhóm kháng sinh (cefotaxim, ceftriaxon, amoxicillin, cefalexin, ceftazidim); nhóm thuốc điều trị lao (streptomycin, pyrazinamid, rifampicin) và nhóm thuốc giảm đau, hạ sốt, chống viêm (paracetamol, diclofenac)
2.5. Diễn biến của ADR đã được ghi nhận trong năm 2010
- Các ADR được báo cáo chủ yếu là các ADR nhẹ, hồi phục không có di chứng, chiếm tỷ lệ 80,1%
- Phản ứng có hại của thuốc để lại di chứng trên bệnh nhân chiếm tỷ lệ 0,8%
- ADR nghiêm trọng gây tử vong được báo cáo trên 3 bệnh nhân (0,2%)
2.6. Phân loại tổ chức cơ thể bị ảnh hưởng và các phản ứng có hại ghi nhận được
- Ngoài ra, những báo cáo ADR cần các xét nghiệm thăm dò chức năng chuyên biệt như ADR trên gan, huyết học còn chiếm tỷ lệ thấp : viêm gan (0,73%), thiếu máu (0,26%)…
- ADR nghiêm trọng gây tử vong được báo cáo trên 3 bệnh nhân. Trong đó, 2 bệnh nhân tử vong do sốc phản vệ khi dùng thuốc ceftriaxon, 1 bệnh nhân tử vong do dùng đồng thời 4 thuốc cloramphenicol, diazepam, paracetamol, ranitidin.
2.7. Phản ứng có hại do nhóm kháng sinh b-lactam
- Trong tổng số 3.810 phản ứng có hại ghi nhận được, nhóm kháng sinh b-lactam gây ra 1.177 phản ứng có hại, chiếm tỷ lệ 30,89%.
- Tổ chức cơ thể bị ảnh hưởng nhiều nhất là rối loạn da và mô dưới da (58,37%) và các rối loạn toàn thân (26,51%).
- Kháng sinh b-lactam gây ra các phản ứng có hại trên da với tần suất cao như ngứa (22,51%), ban đỏ (21,50%). Các phản ứng nghiêm trọng xảy ra với tần suất khá cao là sốc phản vệ 9,60%, đặc biệt có 2 báo cáo về trường hợp tử vong do sốc phản vệ sau khi dùng ceftriaxon.
2.8. Phản ứng có hại do các thuốc NSAIDs và paracetamol
- Số lượng báo cáo ADR mà Trung tâm DI & ADR tiếp nhận được trong năm 2010 là 1.807 báo cáo được gửi từ 234 cơ sở điều trị và 21 đơn vị sản xuất kinh doanh dược phẩm.
- Đối tượng thực hiện báo cáo chủ yếu là bác sĩ, phần lớn báo cáo được gửi từ các đơn vị phía Nam, từ các bệnh viện tuyến tỉnh, bệnh viện đa khoa và bệnh viện thuộc khối công lập.
- Liên quan tới thuốc nghi ngờ gây ADR, nhóm thuốc kháng khuẩn đường dùng toàn thân được báo cáo nhiều nhất (66,1%). Trong nhóm này, các kháng sinh betalactam khác là nhóm dược lý đứng đầu về tần suất báo cáo (26,33%). Điều này phù hợp với mô hình bệnh tật ở Việt Nam, các bệnh về nhiễm khuẩn và ký sinh trùng có tỷ lệ mắc cao.
- Phần lớn các ADR được ghi nhận là các ADR nhẹ, không để lại dị chứng (80,1%), tập trung chủ yếu vào các rối loạn da và mô dưới da (52,05%).
- Đa số các báo cáo gửi về ghi đầy đủ các thông tin yêu cầu. Tuy nhiên, vẫn còn 3,4% tổng số báo cáo thiếu thông tin về ADR hoặc thuốc, gây khó khăn cho công tác thẩm định Các phản ứng có hại ghi nhận được chủ yếu là phản ứng cấp tính và quan sát được bằng mắt thường, những báo cáo ADR cần các xét nghiệm thăm dò chức năng chuyên biệt chiếm tỷ lệ thấp.
Tài liệu tham khảo
Trích lược Tổng kết công tác báo cáo ADR năm 2010 của Trung tâm Quốc gia về Thông tin thuốc và Theo dõi phản ứng có hại của thuốc.
Trong giai đoạn năm 2018-2021, Mạng lưới An toàn Chăm sóc Sức khỏe Quốc gia (NHSN) đã báo cáo rằng 0,4% (n = 1.951) các ca nhiễm trùng mắc phải tại bệnh viện (HAI) ở Hoa Kỳ nguyên nhân do Acinetobacter spp. gây ra. Trong số này có 28-45% không nhạy cảm với kháng sinh carbapenem (tức là trung gian hoặc đề kháng).
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCT), BLING III cung cấp bằng chứng việc sử dụng truyền liên tục (CI) so với truyền ngắt quãng piperacillin/tazobactam và meropenem trên bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Điều này được củng cố bởi một đánh giá tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp (SRMA) của 18 RCT về CI hoặc truyền kéo dài (EI) (thời gian từ 3–4 giờ) các kháng sinh beta-lactam. Thách thức hiện nay là chuyển đổi CI như một tiêu chuẩn chăm sóc cho bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Các cân nhắc chính bao gồm các vấn đề sau:
Các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Alabama tại Birmingham, đã tiến hành phân tích dữ liệu thứ cấp trên đối tượng phụ nữ tăng huyết áp mạn tính trong thai kỳ, so sánh với phương pháp điều trị chính. Tăng huyết áp mạn tính nhẹ trong nghiên cứu được định nghĩa là huyết áp 140-159/90-104 mmHg trước 20 tuần của thai kỳ.
Nhiễm trùng huyết – sepsis - vẫn là một trong những nguyên nhân gây tử vong lớn nhất trên thế giới, Tổ chức Y tế Thế giới ước tính 11 triệu người tử vong mỗi năm do tình trạng này. Các yếu tố chính của việc quản lý sepsis là chẩn đoán sớm, liệu pháp kháng sinh kinh nghiệm sớm và phù hợp, với biện pháp kiểm soát nguồn gây bệnh thích hợp và bảo tồn chức năng các cơ quan.
Sự ra đời của vắc-xin giúp chúng ta chủ động phòng chống các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Tổ chức y tế thế giới ước tính chương trình tiêm chủng hiện nay giúp ngăn ngừa 3,5-5 triệu ca tử vong mỗi năm do các bệnh như bạch hầu, uốn ván, ho gà, cúm và sởi [2].
Phòng ngừa suy nhược, mệt mỏi, đau nhức:
Hoạt động mỗi ngày đi bộ ngắn, tập các bài tập nhẹ nhàng. Giữ tinh thần ổn định
Chế độ ăn hợp lý trao đổi thêm với bác sĩ về dinh dưỡng bổ sung (thực phẩm giàu protein như thịt, cá, phô mai, sữa chua...). Uống nhiều nước, trừ khi có hướng dẫn khác.
Chườm khăn lạnh nếu có nhức mỏi, đau cơ.