Thông tin thuốc tháng 04/2015
Tổng kết báo cáo ADR năm 2014 tại bệnh viện Từ Dũ
Tổng số báo cáo ADR trong năm 2014 tại Bệnh viện Từ Dũ từ các khoa phòng là 110 báo cáo, là một trong 10 bệnh viện báo cáo ADR nhiều nhất năm 2014 trên cả nước. Số lượng báo cáo ADR năm 2014 giảm 06 báo cáo so với số lượng báo cáo ADR năm 2013 (116 báo cáo)
Số lượng báo cáo ADR từ năm 2010 đến năm 2014
1.Phân bố theo tháng:
Nhận xét:
Số lượng báo cáo ADR phân bố tương đối đều trong các tháng, trung bình 9.2 báo cáo/tháng, tập trung nhiều hơn vào tháng 5 với 16 báo cáo chiếm tỷ lệ 14.5%. Số lượng báo cáo ADR nhận được ít nhất vào tháng 11 với 3 báo cáo chiếm tỷ lệ 2.7%
2.Phân bố số báo cáo ADR theo Khoa:
Nhận xét:
Số lượng báo cáo ADR từ khoa GMHS cao nhất với 26 báo cáo chiếm tỷ lệ 23.6%, tiếp theo là khoa Hậu sản N với 25 báo cáo chiếm tỷ lệ 22.7%, Khoa Sanh với 19 báo cáo chiếm tỷ lệ 17.3%, Khoa Phụ với 11 báo cáo chiếm tỷ lệ 10%. Đây là các Khoa thực hiện tốt việc báo cáo ADR kịp thời nhằm cung cấp thông tin về các phản ứng có hại của thuốc về Trung tâm ADR Quốc Gia.
Các khoa không có báo cáo ADR trong năm 2014 gồm:
Khoa Hậu Sản H, Khoa Hậu Sản M, Khoa Nội Soi.
3. Phân bố số báo cáo ADR theo người báo cáo
|
Số báo cáo ADR |
Tỷ lệ |
Bác sĩ |
90 |
81.8% |
Dược sĩ |
07 |
6.4% |
NHS |
13 |
11.8% |
Nhận xét: Đối tượng báo cáo ADR chủ yếu là Bác sĩ với 90 báo cáo chiếm tỷ lệ 81.8%, có tăng so với năm 2013 (59.5%), tiếp theo là Dược sĩ với 07 báo cáo chiếm tỷ lệ 6.4%, Nữ hộ sinh với 13 báo cáo chiếm tỷ lệ 11.8%
4. Phân bố số báo cáo ADR theo nhóm thuốc
STT |
Nhóm thuốc |
Số báo cáo ADR |
Tỷ lệ |
1 |
Kháng sinh |
49 |
44.5% |
2 |
Thuốc giảm đau |
23 |
20.9% |
3 |
Oxytocin |
15 |
13.6% |
4 |
Thuốc gây mê, tê |
6 |
5.5% |
5 |
Thuốc ung thư |
5 |
4.5% |
6 |
Thuốc đặt phụ khoa |
5 |
4.5% |
7 |
Thuốc khác |
7 |
6.5% |
Nhận xét: Kháng sinh là nhóm thuốc có tỷ lệ báo cáo ADR nhiều nhất với 49 báo cáo chiếm tỷ lệ 44.5%, tiếp theo là nhóm thuốc giảm đau với 23 báo cáo chiếm tỷ lệ 20.9%, oxytocin với 15 báo cáo chiếm tỷ lệ 13.6%.
5. Phân bố số báo cáo ADR theo cơ địa bệnh nhân
Nhận xét: Số báo cáo ADR trên bệnh nhân không có tiền căn dị ứng thuốc là 88 báo cáo chiếm tỷ lệ 80%. Số báo cáo ADR trên bệnh nhân có tiền căn dị ứng thuốc là 22 báo cáo chiếm tỷ lệ 20%, giảm so với năm 2013 (36.21%) thể hiện nhân viên y tế có sự quan tâm trong việc khai thác tiền sử dị ứng của bệnh nhân, do vậy nên theo dõi sát bệnh nhân khi chỉ định sử dụng thuốc để kịp thời xử trí ADR.
6. Những thuốc được báo cáo nhiều nhất
Các thuốc nghi ngờ gây phản ứng có hại xuất hiện nhiều nhất trong các báo cáo ADR thuộc 2 nhóm chính là:
- Nhóm thuốc kháng sinh (49 báo cáo) với đại diện là Cefotaxim, Cefazolin, Metronidazol trong đó Cefotaxim chiếm tỷ lệ cao nhất với 23.6% (26 báo cáo)
- Nhóm thuốc kháng viêm giảm đau (23 báo cáo) với đại diện là Diclofenac, Ketoprofen, Paracetamol trong đó Diclofenac chiếm tỷ lệ cao nhất với 14.5% (16 báo cáo)
7. Những phản ứng ADR nặng, điển hình:
STT |
Tên thuốc |
Phản ứng ADR |
Khoa |
Kết quả thẩm định từ TTDI&ADR |
|
Troypofol |
Tụt huyết áp (80/50mmHg), đỏ da toàn thân, sung huyết kết mạc -> Sốc phản vệ |
GMHS |
Đánh giá: Có khả năng có mối liên hệ giữa các thuốc và phản ứng phản vệ, sốc phản vệ Propofol: - Phản ứng phản vệ, sốc phản vệ: > 1/100 (DTQG 2009) - Có 2 báo cáo sốc phản vệ (50%), 1 báo cáo về tụt huyết áp (25%)/4 báo cáo liên quan propofol (CSDLQG 2010-2012)- Có 97 báo cáo về phản ứng phản vệ và sốc phản vệ (12,6%)/767 báo cáo liên quan đến propofol (WHO 2013) - Phản ứng phản vệ, sốc phản vệ: hiếm gặp (Micromedex 2.0) - Có 5 báo cáo sốc phản vệ (83,3%)/6 báo cáo liên quan atracurium (CSDLQG 2010-2012) - Có 51 báo cáo về phản ứng phản vệ và sốc phản vệ (44%)/ 116 báo cáo liên quan đến Atracurium (WHO 2013) |
|
Vicizolin 1g (Cefazolin) |
Đỏ và xung huyết kết mạc mắt, đỏ tay, tụt huyết áp nghiêm trọng, mạch không bắt được ->Sốc phản vệ |
GMHS |
Đánh giá: Chắc chắn có mối liên hệ giữa thuốc và sốc phản vệ Cefazolin: -Phản ứng phản vệ: có thể gặp (Micromedex 2.0) -Có 06 báo cáo phản ứng phản vệ, sốc phản vệ (12,8%)/47 báo cáo liên quan cefazolin (DLQG 2010-2012) |
Mẩn đỏ hai cánh tay, khó thở →Phản ứng phản vệ |
Khoa Sanh |
Đánh giá: Chắc chắn có mối liên hệ giữa thuốc và phản ứng phản vệ Cefazolin: -Phản ứng phản vệ: có thể gặp (Micromedex 2.0) -Có 06 báo cáo phản ứng phản vệ, sốc phản vệ (12,8%)/47 báo cáo liên quan cefazolin (DLQG 2010-2012) |
||
|
Clefiren 1g (Cefotaxim) |
Choáng váng, khó thở, tăng huyết áp, mạch nhanh → Phản ứng phản vệ |
GMHS |
Đánh giá: Chắc chắn có mối liên hệ giữa thuốc và phản ứng phản vệ Cefotaxim: - Khó thở, huyết áp tăng: đã được ghi nhận (Micromedex 2.0, Vigibase) -Có 48 báo cáo phản ứng khó thở (5,5%), 3 báo cáo tăng huyết áp (0,3%), 14 báo cáo về mạch nhanh (1,6%)/ 877 báo cáo liên quan đến cefotaxim (CSDLQG 2010-2012) |
|
Human albumin Baxter
|
Lạnh run, mệt, khó thở, nhịp tim nhanh, phổi ran rít → Phản ứng phản vệ |
GMHS |
Đánh giá: Chắc chắn có mối liên hệ giữa thuốc và phản ứng ADR Albumin: - Sốc phản vệ: ít gặp (DTQG 2009) - Có 5 báo cáo về phản ứng phản vệ ((17,2%)/29 báo cáo liên quan đến albumin (DI&ADR 2012) |
|
Oxylpan 5đv (Oxytocin) |
5 phút sau khi tiêm tĩnh mạch chậm, bệnh nhân chóng mặt, nôn ói, khó thở, nhức đầu |
Khoa Phụ |
Đánh giá: Chắc chắn có mối liên hệ giữa thuốc và phản ứng ADR Oxytocin: -Nhức đầu, buồn nôn: 1/1000-1/100, khó thở, nôn ói, chóng mặt: <1/1000 (DTQG 2009) - Có 7 báo cáo về buồn nôn (4,5%), 7 báo cáo về nôn (4,5%), 2 báo cáo về chóng mặt (1,3%), 5 báo cáo về đau đầu (3,2%), 4 báo cáo về khó thở (2,5%), 7 báo cáo về phản ứng phản vệ (4,5%)/157 báo cáo liên quan đến oxytocin (WHO 2013) - Có 2 báo cáo về phản ứng phản vệ và sốc phản vệ (10,5%)/19 báo cáo liên quan đến oxytocin (CSDLQG 2011) |
|
Spasmaverin (Alverin) |
Sau 10 uống thuốc, bệnh nhân thấy ngứa, đỏ mặt, khó thở, hỏi không trả lời được, nổi mẩn khắp người, phù mặt |
Khoa khám tiền sản |
Đánh giá: Chắc chắn có mối liên hệ giữa thuốc và phản ứng ADR - Phản ứng phản vệ: hiếm gặp (DTQG 2009) - Không có báo cáo về phản ứng phản vệ/5 báo cáo liên quan đến alverin (CSDLQG 2011) - Có 6 báo cáo phản ứng phản vệ (4,8%)/ 126 báo cáo liên quan đến alverin (Vigilyze 1985-2013) |
|
Vinphatocin 5UI Methylergometrine |
2 tay chân đỏ, mạch nhanh sau đó rối loạn nhịp tim, phân ly nhĩ thất, huyết áp tụt 40/30mmHg à30/20mmHg → Phản ứng phản vệ |
GMHS |
Đánh giá: Có khả năng có mối liên hệ giữa thuốc và phản ứng ADR Oxytocin: - Sốc phản vệ: tỷ lệ: <1/1000 (DTQG 2009) - Có 2 báo cáo phản ứng phản vệ (10.5%)/17 báo cáo liên quan oxytocin (CSDLQG 2011) Methylergometrine: - Phản ứng quá mẫn, sốc đã được ghi nhận (Micromedex 2.0, Martindale) - Không có báo cáo về phản ứng phản vệ hay sốc phản vệ/ 2 báo cáo liên quan đến methylergometrine (CSDLQG 2011) - Có 1 báo cáo về sốc phản vệ (0.8%)/122 báo cáo liên quan đến methylergometrine (Vigibase 2011)
|
|
Nisitanol (Nefopam)
Paracetamol Kabi |
Nổi mẩn đỏ ở mặt, ngực, tay và ngứa |
GMHS |
Đánh giá: Có khả năng có mối liên hệ giữa thuốc và phản ứng ADR Nefopam: - Có 2 báo cáo về mẩn đỏ, ngứa (14,3%)/ 14 báo cáo liên quan đến nefopam (CSDLQG 2010-2012) Paracetamol: - Phản ứng quá mẫn ngoài da: ít gặp 1/1000-1/100 (DTQG 2009) - Có 241 báo cáo về mẩn đỏ, ngứa (55,3%)/ 436 báo cáo liên quan Paracetamol (CSDLQG 2010-2012) |
|
Spasless (Phloroglucinol) |
Mẩn đỏ, ngứa khắp người, đỏ mặt, phù mi mắt, mạch nhanh 130 lần/phút, huyết áp 95/60mmHg |
Khoa Sanh |
Đánh giá: Có thể có mối liên hệ giữa thuốc và phản ứng ADR Phloroglucinol: - Phản ứng phản vệ, sốc phản vệ: có thể gặp (Micromedex 2.0) -Có 3 báo cáo về phản ứng phản vệ (3,1%)/96 báo cáo liên quan Phloroglucinol (WHO 2014) |
|
Quinvaxem OPV Rotarix |
Da xanh, tím quanh môi, lừ đừ, khó thở → Phản ứng phản vệ |
Phòng khám trẻ |
Đánh giá: Có khả năng có mối liên hệ giữa thuốc và phản ứng ADR Quinvaxem: - Có 16 trường hợp tử vong (30,8%)/ 52 báo cáo liên quan đến Quinvaxem (CSDLQG 2013) OPV: - Có 3 báo cáo liên quan đến OPV (CSDLQG 2013) Rotarix: - Có 3 báo cáo liên quan đến Rotarix (CSDLQG 2013) |
- Bệnh viện đã thực hiện 378 báo cáo ADR, giảm 7,9% so với năm 2023 (408 báo cáo), tăng 14,2% so với năm 2022 (331 báo cáo).
- Số lượng báo cáo ADR ngoại trú là 18 báo cáo, giảm 3,6 lần so với năm 2023 (66 báo cáo).
- Bệnh viện Từ Dũ được Trung tâm DI&ADR quốc gia xếp hạng 8/991 cơ sở khám chữa bệnh có hoạt động theo dõi ADR hiệu quả trong báo cáo tổng kết ADR quốc gia vào tháng 9/2024.
Mirvetuximab soravtansine-gynx đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt điều trị cho bệnh nhân trưởng thành mắc ung thư biểu mô buồng trứng, ống dẫn trứng, hoặc ung thư phúc mạc nguyên phát dương tính với thụ thể folat alpha (FRα), kháng hóa trị, là những bệnh nhân đã trải qua 3 liệu trình điều trị trước đó. Theo các chuyên gia, bệnh nhân mắc các loại ung thư này thường được phát hiện khi bệnh đã ở giai đoạn muộn, trải qua phẫu thuật và sau đó được điều trị bằng phác đồ hóa trị có platinum nhưng có thể trở nên kháng thuốc.
Kháng sinh (KS) phổ rộng được xem như “thần dược” để điều trị các bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng hoặc đe dọa tính mạng khi tác nhân gây bệnh chưa được xác định. Mục đích sử dụng KS phổ rộng nhằm bao phủ nhiều loại tác nhân vi khuẩn gram dương và gram âm, bao gồm cả các tác nhân kháng thuốc trong khi chờ kết quả nuôi cấy. Tuy nhiên, việc sử dụng bừa bãi các KS phổ rộng cũ và mới đã góp phần đáng kể vào sự gia tăng tình trạng kháng kháng sinh (AMR) – một vấn đề sức khỏe toàn cầu đáng lưu ý.
Những dữ kiện của một nghiên cứu tiền lâm sàng cho thấy: đái tháo đường thai kỳ (ĐTĐTK) có thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng và tử vong ở trẻ sơ sinh nguyên nhân do liên cầu khuẩn nhóm B (GBS). Có nhiều lý do như: thay đổi hệ vi sinh vật âm đạo, giảm đáp ứng miễn dịch và quá trình điều hoà thích nghi của vi khuẩn.
Tiền sản giật là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong mẹ. Bệnh lý tiền sản giật có liên quan đến sự xâm lấn tế bào nuôi nhau thai và sự tái cấu trúc động mạch xoắn tử cung. Với đặc tính kháng viêm, aspirin được giả thuyết rằng có thể cải thiện sự bám nhau giúp ngăn ngừa tiền sản giật. Vì vậy, spirin liều thấp được khuyến cáo sử dụng để dự phòng tiền sản giật trong thai kỳ. Mặt khác, aspirin cũng được chỉ định cho các trường hợp thai giới hạn tăng trưởng, sinh non, thai lưu.
Sốt là triệu chứng phổ biến trong thực hành lâm sàng hàng ngày và một số lượng lớn người bệnh nhập viện do sốt. Nhiều người bệnh được dùng thuốc kháng sinh, thuốc kháng vi-rút, thuốc kháng nấm hoặc thuốc kháng ký sinh trùng, nếu coi nhiễm trùng là nguyên nhân chính. Tuy nhiên, thuốc được dùng để điều trị có thể là nguyên nhân tiềm ẩn gây sốt trong bối cảnh như vậy