Thông tin thuốc tháng 06/2018
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA NHÓM KHÁNG SINH AMINOGLYCOSID
Nhóm Aminoglycosid là một trong những kháng sinh lâu đời nhất, bắt đầu bởi sự ra đời của streptomycin phân lập từ vi khuẩn Streptomyces griseus năm 1944. Giống như penicillin, những tác nhân này ban đầu có hoạt tính trên cả vi khuẩn Gram âm và Gram dương. Tuy nhiên, khác với penicillin, nhóm aminoglycosid vẫn duy trì hiệu quả chống lại nhiều loại vi khuẩn mặc dù đã được sử dụng hơn 30 năm và là những kháng sinh thông dụng hiện nay.
Hai đặc điểm dược lực học quan trọng của nhóm aminoglycosid là diệt khuẩn phụ thuộc nồng độ và hiệu ứng hậu kháng sinh. Trong thực hành lâm sàng, nhóm aminoglycosid thường được sử dụng (đa số phối hợp với những kháng sinh khác) trong những trường hợp nhiễm khuẩn nặng, chẳng hạn như nhiễm khuẩn huyết, nhiễm khuẩn hô hấp mắc phải tại bệnh viện, nhiễm trùng niệu có biến chứng, nhiễm trùng ổ bụng có biến chứng, và viêm cơ xương gây bởi trực khuẩn Gram âm hiếu khí. Một khi đã xác định được vi khuẩn gây bệnh cũng như tính nhạy cảm, nhóm aminoglycosid thường được ngưng sử dụng, ưu tiên cho những kháng sinh ít độc tính hơn để hoàn thiện liệu trình điều trị.
Nhóm aminoglycosid có hoạt tính rất tốt trên vi khuẩn Gram âm hiếu khí. Các kháng sinh này thường được sử dụng để điều trị các bệnh nhiễm trùng do các vi khuẩn họ Enterobacteriaceae và Pseudomonas aeruginosa. Do kết quả trong các nghiên cứu trên động vật ít khả quan, nhóm aminoglycosid thường được sử dụng kết hợp với một kháng sinh khác, ngay cả trong trường hợp các chủng vi khuẩn nhạy cảm cao với nhóm aminoglycosid. Hoạt tính trên vi khuẩn Gram dương hiếu khí thấp hơn. Khả năng đi vào tế bào của nhóm aminoglycosid được tăng cường bởi những kháng sinh ức chế sự tổng hợp thành tế bào, ví dụ như nhóm beta-lactam và vancomycin. Do đó, ở một số vi khuẩn Gram dương hiếu khí như enterococci, nhóm aminoglycosid có tác dụng hiệp đồng khi sử dụng với những tác nhân này ngay cả khi vi khuẩn đề kháng ở mức độ trung gian với aminoglycosid. Liều aminoglycosid thấp hơn được dùng khi phối hợp với các kháng sinh có hoạt tính trên thành tế bào để điều trị vi khuẩn Gram dương hiếu khí. Một số kháng sinh nhóm aminoglycosid cũng có hoạt tính đối với một vài chủng Mycobacteria, chẳng hạn như Mycobacterium tuberculosis và Mycobacterium avium.
Streptomycin
Streptomycin là kháng sinh nhóm aminoglycosid lâu đời nhất, ngày nay hiếm khi được sử dụng. Streptomycin vẫn là lựa chọn thứ hai trong điều trị bệnh lao. Ngoài ra, do sự khác biệt về cơ chế kháng thuốc, streptomycin vẫn có hiệu quả đối với một số chủng enterococci có khả năng kháng gentamicin và các aminoglycosid khác.
Gentamicin
Gentamicin là kháng sinh nhóm aminoglycosid được sử dụng phổ biến nhất, có hoạt tính trên cả vi khuẩn Gram âm và vi khuẩn Gram dương hiếu khí.
Tobramycin
Đối với mục đích thực hành, tobramycin có cùng hoạt tính như gentamicin và được sử dụng tương tự. Nói chung, hầu hết các chủng kháng gentamicin cũng ít nhạy cảm với tobramycin. Tuy nhiên, khác với gentamicin, tobramycin kém hoạt tính trên enterococci và không nên sử dụng cho các bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn này gây ra.
Amikacin
Các chủng vi khuẩn Gram âm hiếu khí đề kháng với gentamicin và tobramycin có thể vẫn còn nhạy cảm với amikacin. Do đó, amikacin có hoạt tính tổng thể tốt hơn đối với những vi khuẩn này. Tuy nhiên, giống như tobramycin, amikacin kém hoạt tính đối với enterococci.
Độc tính
Yếu tố chính hạn chế việc sử dụng nhóm aminoglycosid là độc tính của chúng. Các thuốc này liên quan đến độc tính trên thận và độc tính trên tai với tần số tương đối cao.
Aminoglycosid thâm nhập vào tế bào kém ngoại trừ các tế bào ống thận gần, nơi các thuốc này tích tụ. Kết quả là, khoảng 5% đến 10% bệnh nhân sử dụng aminoglycosid sẽ xuất hiện độc tính trên thận hoặc giảm chức năng thận. Tỷ lệ mắc bệnh có thể lên đến 50% ở những bệnh nhân có yếu tố nguy cơ đối với độc tính, chẳng hạn như tuổi cao và tiếp xúc đồng thời với các chất gây độc thận khác. Điều may mắn là tổn thương trên thận thường có thể đảo ngược, và chức năng thận thường hồi phục sau khi ngưng thuốc. Lưu ý rằng độc tính thận thường chỉ được ghi nhận sau 4 đến 5 ngày điều trị. Do đó, aminoglycosid khá an toàn khi sử dụng trong một thời gian ngắn, nguy cơ người bệnh gặp phải tác dụng không mong muốn này là không đáng kể.
Độc tính trên tai gồm hai loại: suy giảm thính giác, có thể dẫn đến mất thính lực không thể hồi phục, và độc tính tiền đình, dẫn đến rối loạn cân bằng. Streptomycin có liên quan đến tỷ lệ độc tính tiền đình đặc biệt cao.
Việc sử dụng aminoglycosid với chế độ liều một lần mỗi ngày giúp tối ưu hóa tác dụng diệt khuẩn, đồng thời giúp giảm tối thiểu độc tính trên thận.
Tài liệu tham khảo:
- Alan R. Hauser (2013). “Antibiotic Basics for Clinicians: the ABCs of choosing the right antibacterial agent”. 2nd edition. Lippincott Williams & Wilkins.
- Burke A. Cunha, MD, MACP. “Antibiotic esstentials”. 14th edition. Jones & Barlett Learning.
- Uptodate 21.2.
Sốt là triệu chứng phổ biến trong thực hành lâm sàng hàng ngày và một số lượng lớn người bệnh nhập viện do sốt. Nhiều người bệnh được dùng thuốc kháng sinh, thuốc kháng vi-rút, thuốc kháng nấm hoặc thuốc kháng ký sinh trùng, nếu coi nhiễm trùng là nguyên nhân chính. Tuy nhiên, thuốc được dùng để điều trị có thể là nguyên nhân tiềm ẩn gây sốt trong bối cảnh như vậy
Năm 2024, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) đã ban hành hướng dẫn về việc sử dụng doxycyclin dự phòng sau phơi nhiễm (doxy-PEP) để phòng ngừa bệnh nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục (STI). Dự phòng sau phơi nhiễm là một chiến lược hoá trị dự phòng, trong đó thuốc được dùng sau khi có khả năng phơi nhiễm để ngăn ngừa nhiễm trùng. Đây là một chiến lược phòng ngừa phổ biến và hiệu quả đối với HIV và các bệnh nhiễm trùng khác, chẳng hạn như bệnh dại và uốn ván. Doxycyclin là một kháng sinh nhóm tetracyclin phổ rộng dung nạp tốt và được khuyến cáo điều trị bệnh chlamydia và là phương pháp thay thế trong điều trị giang mai ở những bệnh nhân không có thai.
Việc bẻ, nghiền viên nén không bao, bao phim, bao đường hoặc mở viên nang giải phóng dược chất tức thì không làm thay đổi sinh khả dụng của thuốc và giúp bệnh nhân tuân thủ điều trị tốt hơn
Trẻ em không phải người lớn thu nhỏ. Các yếu tố dược động học ở trẻ sơ sinh thay đổi liên tục do sự phát triển nhanh về sinh lý. Tiêm tĩnh mạch thường được sử dụng trong điều trị cho trẻ sơ sinh, đặc biệt khi trẻ đang điều trị tại đơn vị chăm sóc tích cực. Khi tiêm tĩnh mạch, hiệu quả gần như tức thời. Hầu hết các loại thuốc tiêm tĩnh mạch cho trẻ sơ sinh có những yêu cầu riêng về độ pha loãng và/hoặc tốc độ truyền.
Trong giai đoạn năm 2018-2021, Mạng lưới An toàn Chăm sóc Sức khỏe Quốc gia (NHSN) đã báo cáo rằng 0,4% (n = 1.951) các ca nhiễm trùng mắc phải tại bệnh viện (HAI) ở Hoa Kỳ nguyên nhân do Acinetobacter spp. gây ra. Trong số này có 28-45% không nhạy cảm với kháng sinh carbapenem (tức là trung gian hoặc đề kháng).
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCT), BLING III cung cấp bằng chứng việc sử dụng truyền liên tục (CI) so với truyền ngắt quãng piperacillin/tazobactam và meropenem trên bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Điều này được củng cố bởi một đánh giá tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp (SRMA) của 18 RCT về CI hoặc truyền kéo dài (EI) (thời gian từ 3–4 giờ) các kháng sinh beta-lactam. Thách thức hiện nay là chuyển đổi CI như một tiêu chuẩn chăm sóc cho bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Các cân nhắc chính bao gồm các vấn đề sau: