Thông tin thuốc tháng 08/2013: Sơ kết báo cáo ADR 6 tháng đầu năm 2013 tại BV Từ Dũ
DS. Đặng Thị Thuận Thảo
Khoa Dược - BV Từ Dũ
Tổng số báo cáo ADR: 65 báo cáo
1. Phân bố theo tháng:
Nhận xét: Số lượng báo cáo ADR phân bố đều trong các tháng nhưng tập trung nhiều hơn vào tháng 2, tháng 4, tháng 5 với 14 báo cáo
2. Phân bố theo đối tượng báo cáo:
|
Số báo cáo ADR |
Tỷ lệ |
Bác sĩ |
38 |
58.5% |
Dược sĩ |
17 |
26.1% |
Nữ hộ sinh |
10 |
15.4% |
Nhận xét: Đối tượng báo cáo ADR chủ yếu là Bác sĩ, chiếm tỷ lệ (58.5%), tiếp theo là Dược sĩ (26.1%), Nữ Hộ sinh (15.4%)
3. Phân bố số báo cáo ADR theo Khoa:
Nhận xét: Số lượng báo cáo ADR từ Nhà thuốc bệnh viện cao nhất với 17 báo cáo, tiếp theo là Khoa PTGMHS với 13 báo cáo, Khoa Sanh với 8 báo cáo
4. Phân bố số báo cáo ADR theo nhóm thuốc
Nhận xét: Kháng sinh là nhóm thuốc có tỷ lệ báo cáo ADR nhiều nhất (44.62%), tiếp theo là nhóm kháng viêm giảm đau với tỷ lệ 29.23%, thuốc đặt phụ khoa là 10.77%
5. Phân bố số báo cáo ADR theo cơ địa bệnh nhân
Nhận xét: Số báo cáo ADR trên bệnh nhân không có tiền căn dị ứng thuốc chiếm tỷ lệ (71.8%) cao hơn số báo cáo ADR trên bệnh nhân có tiền căn dị ứng thuốc (29.2%), nên có sự theo dõi sát bệnh nhân trong và sau khi sử dụng thuốc.
6. Những thuốc được báo cáo nhiều nhất
Nhận xét: Các thuốc nghi ngờ gây phản ứng có hại xuất hiện nhiều nhất trong các báo cáo ADR thuộc 2 nhóm chính là:
- Nhóm thuốc kháng sinh với 3 đại diện là Cefotaxim, Augmentine, Cefazolin trong đó Cefotaxim chiếm tỷ lệ cao nhất với 37.9%
- Nhóm thuốc kháng viêm giảm đau với 4 đại diện là Diclofenac, Ketoprofen, Paracetamol, Ibuprofen trong đó Diclofenac chiếm tỷ lệ cao nhất với 42.1%
Kết luận
Công tác báo cáo ADR 6 tháng đầu năm 2013 đã có những chuyển biến tích cực:
- Số lượng báo cáo tăng hơn gấp đôi số lượng báo cáo ADR 6 tháng đầu năm 2012
- Chất lượng báo cáo đã được cải thiện: thông tin được điền đầy đủ hơn theo quy định
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCT), BLING III cung cấp bằng chứng việc sử dụng truyền liên tục (CI) so với truyền ngắt quãng piperacillin/tazobactam và meropenem trên bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Điều này được củng cố bởi một đánh giá tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp (SRMA) của 18 RCT về CI hoặc truyền kéo dài (EI) (thời gian từ 3–4 giờ) các kháng sinh beta-lactam. Thách thức hiện nay là chuyển đổi CI như một tiêu chuẩn chăm sóc cho bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Các cân nhắc chính bao gồm các vấn đề sau:
Các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Alabama tại Birmingham, đã tiến hành phân tích dữ liệu thứ cấp trên đối tượng phụ nữ tăng huyết áp mạn tính trong thai kỳ, so sánh với phương pháp điều trị chính. Tăng huyết áp mạn tính nhẹ trong nghiên cứu được định nghĩa là huyết áp 140-159/90-104 mmHg trước 20 tuần của thai kỳ.
Nhiễm trùng huyết – sepsis - vẫn là một trong những nguyên nhân gây tử vong lớn nhất trên thế giới, Tổ chức Y tế Thế giới ước tính 11 triệu người tử vong mỗi năm do tình trạng này. Các yếu tố chính của việc quản lý sepsis là chẩn đoán sớm, liệu pháp kháng sinh kinh nghiệm sớm và phù hợp, với biện pháp kiểm soát nguồn gây bệnh thích hợp và bảo tồn chức năng các cơ quan.
Sự ra đời của vắc-xin giúp chúng ta chủ động phòng chống các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Tổ chức y tế thế giới ước tính chương trình tiêm chủng hiện nay giúp ngăn ngừa 3,5-5 triệu ca tử vong mỗi năm do các bệnh như bạch hầu, uốn ván, ho gà, cúm và sởi [2].
Phòng ngừa suy nhược, mệt mỏi, đau nhức:
Hoạt động mỗi ngày đi bộ ngắn, tập các bài tập nhẹ nhàng. Giữ tinh thần ổn định
Chế độ ăn hợp lý trao đổi thêm với bác sĩ về dinh dưỡng bổ sung (thực phẩm giàu protein như thịt, cá, phô mai, sữa chua...). Uống nhiều nước, trừ khi có hướng dẫn khác.
Chườm khăn lạnh nếu có nhức mỏi, đau cơ.
Phòng ngừa thiếu máu, mệt mỏi:
Hoạt động mỗi ngày đi bộ ngắn, tập các bài tập nhẹ nhàng. Giữ tinh thần ổn định.
Chế độ ăn hợp lý trao đổi thêm với bác sĩ về dinh dưỡng bổ sung (thực phẩm giàu protein như thịt, cá, phô mai, sữa chua...). Uống nhiều nước, trừ khi có hướng dẫn khác.