Thông tin thuốc tháng 08/2020
Trong 6 tháng đầu năm 2020 Bệnh viện Từ Dũ đã gửi gửi về Trung tâm DI & ADR Quốc gia 207 báo cáo ADR, tăng 35% so với cùng kỳ năm 2019 (140 báo cáo).
Tất cả các báo cáo gửi về khoa Dược đều đầy đủ thông tin. Tuy nhiên, khoảng 5% các báo cáo ADR chưa lựa chọn thông tin chính xác cho câu hỏi “Tái sử dụng thuốc bị nghi ngờ có xuất hiện lại phản ứng hay không?”.Tất cả các báo cáo ADR đều được khoa Dược thẩm định, cập nhật, xác nhận trước khi gửi về Trung tâm DI & ADR Quốc gia.
1.Phân bố theo tháng:

Nhận xét:
Số lượng báo cáo ADR thấp hơn tại thời điểm tháng 1,2,3/2020, tương ứng với việc giảm số lượng người bệnh trong các tháng này do dịch bệnh Covid-19. Số lượng báo cáo ADR trong các tháng 4,5,6 gia tăng trở lại và phân bố đồng đều. Dù chịu sự ảnh hưởng của Covid-19, trong 6 tháng đầu năm 2020 số lượng báo cáo ADR trung bình trong là 31 báo cáo/tháng, tăng 26% so với cùng kỳ năm 2019 (23 báo cáo/tháng). Việc này cho thấy các khoa phòng đã thực hiện rất nghiêm túc việc theo dõi và báo cáo ADR.
2.Phân bố số báo cáo ADR theo khoa:

Nhận xét:
Trong năm 2020, khoa Dược đã nhận được báo cáo ADR từ nhiều khoa lâm sàng hơn (14 khoa trong 6 tháng đầu năm 2020 so với 11 khoa cùng kỳ năm 2019) và số lượng báo cáo từ các khoa phòng cũng được phân bố đồng đều hơn. Khoa Sản N1 và Sản N2 tiếp tục là 2 khoa có số lượng báo cáo ADR cao nhất, chiếm tỉ lệ lần lượt là 15,9% (30 báo cáo ADR) và 14,9% (28 báo cáo ADR). Số lượng báo cáo ADR của khoa Phẫu thuật Gây mê hồi sức (GMHS) tăng 36,8% (26 báo cáo ADR) so với cùng kỳ 2019 (19 báo cáo ADR). Việc gia tăng số lượng báo cáo ADR góp phần xây dựng cơ sở dữ liệu để đánh giá lợi ích, nguy cơ của thuốc, tăng cường việc sử dụng thuốc an toàn, hợp lý, hiệu quả.
3. Phân bố báo cáo ADR theo người báo cáo
|
Số báo cáo ADR |
Tỷ lệ |
Hộ sinh |
150 |
72,5% |
Bác sĩ |
47 |
22,7% |
Dược sĩ |
10 |
4,8% |
Nhận xét:
Đối tượng báo cáo ADR chủ yếu vẫn là Hộ sinh với 150 báo cáo, duy trì ở tỷ lệ 72,5%, tiếp theo là Bác sĩ với 47 báo cáo chiếm tỷ lệ 22,7%, tuy số lượng báo cáo ADR do bác sĩ thực hiện tăng nhưng tỉ lệ giảm so với 6 tháng đầu năm 2019 (26,7%). Năm 2020, số lượng báo cáo ADR thực hiện bởi Dược sĩ tăng với 4,8% (10 báo cáo ADR) so với cùng kỳ năm 2019 (2,1% - 3 báo cáo ADR).
4. Phân bố số báo cáo ADR theo nhóm thuốc
STT |
Nhóm thuốc |
Số báo cáo ADR |
Tỷ lệ |
1 |
Kháng sinh |
87 |
42,0% |
2 |
Giảm đau hạ sốt |
85 |
41,4% |
3 |
Thuốc thúc đẻ, cầm máu |
11 |
5,31% |
4 |
Thuốc khác |
24 |
11,6% |
Nhận xét:
Kháng sinh là nhóm thuốc có tỷ lệ báo cáo ADR nhiều nhất với 42,0% (87 báo cáo ADR), trong đó hoạt chất Cefotaxim chiếm 41,4% tổng số báo cáo ADR liên quan đến kháng sinh.
Tiếp theo là nhóm thuốc giảm đau hạ sốt chiếm tỷ lệ 41,4% (85 báo cáo ADR), trong đó hoạt chất Diclofenac chiếm 88%, hoạt chất Paracetamol chỉ chiếm 12%. Tỷ lệ này phù hợp với việc các thuốc này được chỉ định thường xuyên nhất tại Bệnh viện Từ Dũ.
Có 12 báo cáo ADR không xác nhận được nguyên nhân do sử dụng đồng thời nhiều thuốc, và ghi nhận 02 báo cáo ADR từ thuốc điều trị ung thư trong 6 tháng đầu năm 2020.
5. Phân bố các báo cáo ADR theo tiền căn dị ứng thuốc
Nhận xét:
Số lượng báo cáo ADR trên bệnh nhân có tiền căn dị ứng thuốc là 18,8% (39 báo cáo ADR), tăng so với cùng kỳ năm 2019 (13,6%). Qua đó, nhân viên y tế cần lưu ý hơn việc khai thác tiền sử dị ứng và chỉ định thuốc để bảo đảm an toàn trong sử dụng thuốc.
Tuy nhiên, thống kê tiền sử dị ứng thuốc trên 207 báo cáo ADR cho thấy: có 5,3% người bệnh khai dị ứng thuốc không rõ loại, 4,8% khai dị ứng thức ăn, tương ứng với khoảng 10% các trường hợp không thể thu thập thông tin nhiều hơn để hỗ trợ việc lựa chọn, chỉ định thuốc. Tỷ lệ này phản ánh khó khăn của nhân viên y tế trong việc khai thác tiền sử dị ứng thuốc và chỉ định thuốc cho người bệnh có tiền sử bị mẫn cảm.
6. Phương hướng thực hiện công tác theo dõi và báo cáo ADR trong 6 tháng cuối năm 2020
- Áp dụng công nghệ thông tin để giảm thời gian, công sức trong công việc báo cáo, lưu trữ, quản lý báo cáo ADR tại Bệnh viện.
- Phối hợp với công nghệ thông tin, khoa Dược theo dõi chi tiết hơn về chất lượng của báo cáo ADR qua việc thẩm định báo cáo mỗi ngày.
- Tiếp tục phổ biến, tuyên truyền để gia tăng số lượng, chất lượng báo cáo ADR
- Lập bảng thông tin để báo cáo ADR chi tiết hơn ở các nội dung:
+ Mô tả biểu hiện ADR
+ Tái sử dụng thuốc bị nghi ngờ có xuất hiện lại phản ứng hay không
Acetaminophen (paracetamol) đã được sử dụng để hạ sốt và giảm đau từ nhẹ đến trung bình. Thuốc có sẵn ở dạng đơn chất hoặc kết hợp với các thuốc khác để điều trị các triệu chứng cảm lạnh, cúm, đau đầu và viêm xương khớp. Tên thương mại phổ biến là Tylenol. Theo Tạp chí Wall Street Journal đưa tin, Bộ trưởng Y tế Hoa Kỳ dự định thông tin về mối liên quan giữa chứng tự kỷ và việc phơi nhiễm với thuốc giảm đau và hạ sốt Tylenol trước khi sinh, như sau:
Tiêm chủng cho mẹ giúp bảo vệ cả mẹ và thai nhi khỏi một số bệnh nhiễm trùng. Lý tưởng nhất là tiêm chủng trước khi thụ thai, nhưng trong một số trường hợp, việc tiêm chủng trong thai kỳ cũng được chỉ định.
Nhiều bằng chứng cho thấy rằng, việc sử dụng kháng sinh ở bệnh nhân tiên lượng nặng bị suy thận cấp (STC) thường không đạt được mục tiêu dược lực học và tỉ lệ tử vong cao liên quan đến nhiễm trùng. Do đó, bài viết này đánh giá những thay đổi thông số về dược động học và dược lực học trên bệnh nhân nặng có STC và đề xuất những giải pháp để có thể tối ưu liều dùng kháng sinh trên những bệnh nhân này.
Trong bản dự thảo cuối cùng, Viện Y tế và Chất lượng Điều trị Quốc gia Anh (NICE) cho biết relugolix-estradiol-norethisterone là một lựa chọn để điều trị các triệu chứng lạc nội mạc tử cung ở những người phụ nữ trưởng thành đang trong độ tuổi sinh sản, nhưng không đáp ứng với phương pháp điều trị nội khoa hoặc phẫu thuật trước đó.
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), có khoảng 10% bệnh nhân tại Mỹ được báo cáo bị dị ứng penicillin. Tuy nhiên, dưới 1% bị dị ứng qua trung gian IgE (loại 1) và các nhà nghiên cứu lưu ý rằng, khoảng 80% bệnh nhân này sẽ mất độ nhạy cảm sau 10 năm. Hơn nữa, CDC khuyến nghị cần xác định những bệnh nhân không thực sự dị ứng penicillin để giảm việc sử dụng kháng sinh phổ rộng không cần thiết. Phản ứng chéo giữa penicillin và cephalosporinlà rất hiếm, nhưng nhiều bác sĩ tránh kê đơn cephalosporin cho bệnh nhân bị dị ứng penicillin, dẫn đến tăng cường sử dụng các loại kháng sinh khác như là quinolon, macrolid, clindamycin, carbapenem và vancomycin, thường gặp nhiều tác dụng phụ hơn, tăng chi phí chăm sóc sức khỏe và góp phần vào tình trạng đề kháng kháng sinh
Độc tính trên thận do thuốc là nguyên nhân phổ biến gây ra tổn thương thận cấp tính (AKI) và kháng sinh (KS) là một trong những nhóm thuốc lớn nhất liên quan đến AKI. Cơ chế gây độc tính trên thận do KS bao gồm tổn thương cầu thận, tổn thương hoặc rối loạn chức năng ống thận, tắc nghẽn ống lượn xa do trụ niệu và viêm thận kẽ cấp tính (AIN) do phản ứng quá mẫn loại IV (loại chậm). Các biểu hiện lâm sàng của độc tính trên thận do KS bao gồm hoại tử ống thận cấp (ATN), AIN và hội chứng Fanconi.