Thông tin thuốc tháng 09/2017: Kháng sinh trong nhiễm trùng ối
1. Điều trị bằng kháng sinh đối với nhiễm trùng ối nghi ngờ hoặc xác định
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên cho thấy điều trị bằng kháng sinh trong lúc sinh đối với nhiễm trùng ối làm giảm tỷ lệ nhiễm khuẩn huyết sơ sinh và viêm phổi. Sử dụng kháng sinh trong lúc sinh đã chứng minh làm giảm thời gian nằm viện và sốt ở mẹ. Vì vậy, khi chưa có tài liệu rõ ràng về nguy cơ vượt trội, kháng sinh trong lúc sinh được khuyến cáo khi nghi ngờ hoặc đã xác định nhiễm trùng ối.
2. Khuyến cáo sau sinh
Các kháng sinh được chỉ định trong lúc sinh do nghi ngờ hoặc xác định nhiễm trùng ối không nên tiếp tục sử dụng một cách thường quy sau khi sinh. Tiếp tục chỉ định kháng sinh dựa trên các yếu tố nguy cơ của viêm nội mạc tử cung sau sinh. Các dữ liệu cho thấy sản phụ sau sinh ngả âm đạo ít bị viêm nội mạc tử cung hơn và có thể không cần tiếp tục dùng kháng sinh sau khi sinh. Đối với mổ lấy thai, khuyến cáo chỉ định thêm ít nhất 1 liều kháng sinh sau sinh. Tuy nhiên, sự hiện diện của các yếu tố nguy cơ khác trên mẹ như nhiễm khuẩn huyết hay sốt dai dẳng sau sinh có thể được xem xét để tiếp tục kháng sinh trị liệu, khoảng thời gian điều trị kháng sinh cho cả sinh ngả âm đạo và mổ lấy thai.
Kháng sinh lựa chọn cho điều trị nhiễm trùng ối nghi ngờ được liệt kê theo bảng dưới đây. Tuy nhiên, các nhà sản phụ khoa nên căn cứ vào kết quả kháng sinh đồ và tình hình nhiễm trùng tại cơ sở y tế để đưa ra một khuyến cáo phù hợp với mô hình đề kháng kháng sinh tại cơ sở.
3. Kháng sinh được khuyến cáo trong điều trị nhiễm trùng ối
a. Theo đồng thuận 2017 của ACOG
Lựa chọn hàng đầu |
Kháng sinh được khuyến cáo Liều dùng |
Ampicillin 2 g mỗi 6 giờ (tĩnh mạch) + Gentamicin liều tải: 2mg/kg sau đó 1,5mg/kg mỗi 8 giờ (tĩnh mạch) hoặc 5mg/kg mỗi 24 giờ (tĩnh mạch) |
Kháng sinh được khuyến cáo Liều dùng (dị ứng nhẹ với nhóm Penicillin) |
Cefazolin 2 g mỗi 8 giờ (tĩnh mạch) + Gentamicin liều tải: 2mg/kg, sau đó 1,5mg/kg mỗi 8 giờ (tĩnh mạch) hoặc 5mg/kg mỗi 24 giờ (tĩnh mạch) |
Kháng sinh được khuyến cáo Liều dùng (dị ứng nặng với nhóm Penicillin) |
Clindamycin 900 mg mỗi 8 giờ (tĩnh mạch) + Gentamicin liều tải: 2mg/kg, sau đó 1,5mg/kg mỗi 8 giờ (tĩnh mạch) hoặc 5mg/kg mỗi 24 giờ (tĩnh mạch) Hoặc Vancomycin* 1 g mỗi 12 giờ (tĩnh mạch) + Gentamicin liều tải: 2mg/kg, sau đó 1,5mg/kg mỗi 8 giờ (tĩnh mạch) hoặc 5mg/kg mỗi 24 giờ (tĩnh mạch) |
Sau mổ lấy thai: chỉ định thêm 1 liều trong liệu trình được lựa chọn. Thêm ít nhất 1 liều Clindamycin 900mg (tĩnh mạch) hoặc Metronidazol 500mg (tĩnh mạch). Sau sinh ngả âm đạo: Không yêu cầu liều bổ sung; nếu có chỉ định, không sử dụng Clindamycin. |
Kháng sinh thay thế |
Ampicillin-sulbactam 3g mỗi 6 giờ (tĩnh mạch) Hoặc Piperacillin-tazobactam 3,375g mỗi 6 giờ Hoặc 4,5 g mỗi 8 giờ (tĩnh mạch) Hoặc Cefotetan 2 g mỗi 12 giờ (tĩnh mạch) Hoặc Cefoxitin 2 g mỗi 8 giờ (tĩnh mạch) Hoặc Ertapenem 1 g mỗi 24 giờ (tĩnh mạch) |
Sau mổ lấy thai: chỉ định thêm 1 liều trong liệu trình lựa chọn. Không yêu cầu bổ sung Clindamycin. Sau sinh ngả âm đạo: Không yêu cầu liều bổ sung; nếu có chỉ định, không sử dụng Clindamycin. |
*: Vancomycin nên được sử dụng khi kết quả cấy vi sinh cho thấy Streptococci nhóm B đề kháng với Clindamycin hoặc Erythromycin (nếu không thể thực hiện kháng sinh đồ với Clindamycin và kháng sinh đồ với Erythromycin không nhạy) hoặc nếu kết quả cấy vi sinh của sản phụ là Streptococci nhóm B và không thực hiện được kháng sinh đồ.
b. Theo Uptodate 2017
Sinh ngả âm đạo: Kháng sinh đường tiêm phổ rộng bao phủ các vi khuẩn hiếu khí tiết men Beta- lactamase và vi khuẩn kỵ khí được lựa chọn đối với nhiễm trùng ối và viêm nội mạc tử cung sau sinh |
Lựa chọn hàng đầu |
Kháng sinh khuyến cáo Liều dùng |
Ampicillin 2 g mỗi 6 giờ (tĩnh mạch) + Gentamicin 5mg/kg mỗi 24 giờ (tĩnh mạch) |
Kháng sinh thay thế |
Ampicillin 2 g mỗi 6 giờ (tĩnh mạch) + Gentamicin 1,5mg/kg mỗi 8 giờ (tĩnh mạch) Hoặc Ampicilin-sulbactam 3 g mỗi 6 giờ (tĩnh mạch) Hoặc Ticarcilin-clavulanat 3,1g 3,1 g mỗi 4 giờ (tĩnh mạch) Hoặc Cefoxitin 2g 2g mỗi 6 giờ (tĩnh mạch) |
Mổ lấy thai: Thai phụ sinh mổ, cần bao phủ thêm vi khuẩn kỵ khí vì vi khuẩn kỵ khí là nguyên nhân chủ yếu trong các biến chứng của viêm nội mạc tử cung sau mổ lấy thai. Thêm kháng sinh bao phủ vi khuẩn kỵ khí làm giảm tỷ lệ thất bại của viêm nội mạc tử cung sau mổ. |
Lựa chọn hàng đầu |
+ Gentamicin 5mg/ kg mỗi 24 giờ (tĩnh mạch) + Clindamycin 900mg Hoặc
+ Gentamicin 5mg/kg mỗi 24 giờ (tĩnh mạch) + Metronidazol 500mg
|
Kháng sinh thay thế |
|
Kháng sinh được khuyến cáo (dị ứng với nhóm Penicillin) |
Dùng Vancomycin thay cho Ampicilin trong các liệu trình điều trị trên, truyền tĩnh mạch 1 g mỗi 12 giờ |
Thai phụ dương tính với Streptococci nhóm B - những thai phụ được chỉ định Penicillin G trong dự phòng Streptococci nhóm B cần dùng kháng sinh thay thế có phổ rộng hơn nếu bị nhiễm trùng ối. Ampicillin và Gentamicin là một lựa chọn hợp lý. |
Điều trị bằng kháng sinh sau khi sinh |
Sau sinh ngả âm đạo |
Sau mổ lấy thai Chỉ định thêm 1 liều kháng sinh, nhưng thời gian trị liệu kháng sinh dài hơn (cho đến khi người bệnh hết sốt hoặc không còn triệu chứng trong ít nhất 24 giờ) là một lựa chọn thay thế hợp lý (chất lượng của các bằng chứng hiện có ở mức thấp). |
Tài liệu tham khảo
- Intrapartum Management of Intraamniotic Infection. ACOG committee opinion. The American College of Obstetricians and Gynecologists. Number 712, vol. 130, № 2, August 2017, p.95-101.
- Intra amniotic infection (clinical chorioamnionitis or triple I), Uptodate 2017.
Sốt là triệu chứng phổ biến trong thực hành lâm sàng hàng ngày và một số lượng lớn người bệnh nhập viện do sốt. Nhiều người bệnh được dùng thuốc kháng sinh, thuốc kháng vi-rút, thuốc kháng nấm hoặc thuốc kháng ký sinh trùng, nếu coi nhiễm trùng là nguyên nhân chính. Tuy nhiên, thuốc được dùng để điều trị có thể là nguyên nhân tiềm ẩn gây sốt trong bối cảnh như vậy
Năm 2024, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) đã ban hành hướng dẫn về việc sử dụng doxycyclin dự phòng sau phơi nhiễm (doxy-PEP) để phòng ngừa bệnh nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục (STI). Dự phòng sau phơi nhiễm là một chiến lược hoá trị dự phòng, trong đó thuốc được dùng sau khi có khả năng phơi nhiễm để ngăn ngừa nhiễm trùng. Đây là một chiến lược phòng ngừa phổ biến và hiệu quả đối với HIV và các bệnh nhiễm trùng khác, chẳng hạn như bệnh dại và uốn ván. Doxycyclin là một kháng sinh nhóm tetracyclin phổ rộng dung nạp tốt và được khuyến cáo điều trị bệnh chlamydia và là phương pháp thay thế trong điều trị giang mai ở những bệnh nhân không có thai.
Việc bẻ, nghiền viên nén không bao, bao phim, bao đường hoặc mở viên nang giải phóng dược chất tức thì không làm thay đổi sinh khả dụng của thuốc và giúp bệnh nhân tuân thủ điều trị tốt hơn
Trẻ em không phải người lớn thu nhỏ. Các yếu tố dược động học ở trẻ sơ sinh thay đổi liên tục do sự phát triển nhanh về sinh lý. Tiêm tĩnh mạch thường được sử dụng trong điều trị cho trẻ sơ sinh, đặc biệt khi trẻ đang điều trị tại đơn vị chăm sóc tích cực. Khi tiêm tĩnh mạch, hiệu quả gần như tức thời. Hầu hết các loại thuốc tiêm tĩnh mạch cho trẻ sơ sinh có những yêu cầu riêng về độ pha loãng và/hoặc tốc độ truyền.
Trong giai đoạn năm 2018-2021, Mạng lưới An toàn Chăm sóc Sức khỏe Quốc gia (NHSN) đã báo cáo rằng 0,4% (n = 1.951) các ca nhiễm trùng mắc phải tại bệnh viện (HAI) ở Hoa Kỳ nguyên nhân do Acinetobacter spp. gây ra. Trong số này có 28-45% không nhạy cảm với kháng sinh carbapenem (tức là trung gian hoặc đề kháng).
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCT), BLING III cung cấp bằng chứng việc sử dụng truyền liên tục (CI) so với truyền ngắt quãng piperacillin/tazobactam và meropenem trên bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Điều này được củng cố bởi một đánh giá tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp (SRMA) của 18 RCT về CI hoặc truyền kéo dài (EI) (thời gian từ 3–4 giờ) các kháng sinh beta-lactam. Thách thức hiện nay là chuyển đổi CI như một tiêu chuẩn chăm sóc cho bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Các cân nhắc chính bao gồm các vấn đề sau: