Thông tin thuốc tháng 11/2016
Một số khuyến cáo của Who về điều trị Neisseria gonorrhoeae năm 2016
Khuyến cáo |
Độ mạnh của khuyến cáo và mức độ chứng cứ |
Nhiễm lậu đường sinh dục và hậu môn trực tràng |
|
Theo khuyến cáo điều trị bệnh lây truyền qua đường tình dục của WHO thì dữ liệu về tình hình đề kháng tại địa phương sẽ quyết định phương pháp điều trị (cho cả điều trị phối hợp và đơn điều trị). Ở những nơi không có sẵn dữ liệu về tình hình đề kháng tại địa phương, WHO khuyến cáo điều trị phối hợp hơn là đơn điều trị ở những đối tượng bị lậu sinh dục hoặc lậu hậu môn trực tràng. Hướng dẫn điều trị của WHO đề nghị những lựa chọn sau: Điều trị phối hợp (một trong những lựa chọn sau) • Ceftriaxone 250mg tiêm bắp liều duy nhất phối hợp với Azithromycin 1g uống liều duy nhất. • Hoặc Cefixime 400mg uống liều duy nhất phối hợp với Azithromycin 1g uống liều duy nhất. Đơn điều trị (một trong những lựa chọn sau, dựa vào dữ liệu gần nhất về tình hình đề kháng tại địa phương để xác định sự nhạy cảm với các kháng sinh) • Ceftriaxone 250mg tiêm bắp liều duy nhất. • Hoặc Cefixime 400mg uống liều duy nhất. • Hoặc Spectinomycin 2g tiêm bắp liều duy nhất. Lưu ý: Do có sự tăng đề kháng lậu cầu và giảm hiệu quả điều trị của một số loại thuốc, sự lựa chọn điều trị sẽ dựa vào những dữ liệu đáng tin cậy về sự nhạy cảm với kháng sinh tại địa phương. Các đơn điều trị thay thế như Gentamicin hoặc Kanamycin, không được đề xuất do không có số liệu theo dõi. Khuyến cáo này được áp dụng cho cả phụ nữ có thai – là những đối tượng cần được theo dõi chặt chẽ các biến chứng. |
Báo cáo thực hành tốt
Khuyến cáo có điều kiện, mức độ chứng cứ thấp |
Tái điều trị lậu cầu cho trường hợp điều trị thất bại |
|
Ở những người bị nhiễm lậu cầu đã thất bại điều trị, khuyến cáo của WHO về điều trị bệnh lây truyền qua đường tình dục đề nghị những lựa chọn sau. • Nếu nghi ngờ tái nhiễm, tái điều trị theo khuyến cáo của WHO, hạn chế hoạt động tình dục hoặc dùng bao cao su và điều trị cho bạn tình. • Nếu điều trị thất bại sau khi điều trị không theo khuyến cáo của WHO, tái điều trị theo khuyến cáo của WHO. • Nếu điều trị thất bại và dữ liệu về đề kháng sẵn có, tái điều trị theo sự nhạy cảm với kháng sinh. • Nếu điều trị thất bại sau khi điều trị theo khuyến cáo đơn điều trị của WHO, tái điều trị theo khuyến cáo điều trị phối hợp của WHO. • Nếu thất bại điều trị sau khi điều trị theo khuyến cáo điều trị phối hợp của WHO, tái điều trị với một trong những điều trị phối hợp sau: - Ceftriaxone 500mg tiêm bắp liều duy nhất phối hợp với Azithromycin 2g uống liều duy nhất. - Hoặc Cefixime 800mg uống liều duy nhất phối hợp với Azithromycin 2g uống liều duy nhất. - Hoặc Gentamicin 240mg tiêm bắp liều duy nhất phối hợp với Azithromycin 2g uống liều duy nhất. - Hoặc Spectinomycin 2g tiêm bắp liều duy nhất (nếu không phải là nhiễm vùng hầu họng) phối hợp với Azithromycin 2g uống liều duy nhất. Lưu ý: Trước khi tái điều trị, tái nhiễm nên được chẩn đoán phân biệt với thất bại điều trị, dữ liệu đề kháng nên thực hiện khi có thể và các khuyến cáo của WHO nên áp dụng. |
Khuyến cáo có điều kiện, mức độ chứng cứ rất thấp |
Viêm kết mạc do lậu cầu ở trẻ sơ sinh |
|
Ở trẻ sơ sinh bị viêm kết mạc do lậu cầu, khuyến cáo của WHO đề nghị một trong những lựa chọn sau: • Ceftriaxone 50mg/kg (tối đa 150mg) tiêm bắp liều duy nhất. • Hoặc Kanamycin 25mg/kg (tối đa 75mg) tiêm bắp liều duy nhất. • Hoặc Spectinomycin 25mg/kg (tối đa 75mg) tiêm bắp liều duy nhất. Lưu ý: Do lợi ích từ việc điều trị, trẻ sơ sinh nên được điều trị viêm kết mạc do lậu cầu. Sự lựa chọn điều trị phụ thuộc vào chi phí và chất lượng thuốc ở từng cơ sở y tế. Các tác dụng phụ nên được theo dõi ở trẻ. |
Khuyến cáo có điều kiện, mức độ chứng cứ rất thấp |
Đối với tất cả trẻ sơ sinh, WHO khuyến cáo thực hiện dự phòng tại chỗ để phòng ngừa viêm kết mạc do lậu cầu và Chlamydia. |
Khuyến cáo mạnh, mức độ chứng cứ thấp |
Để dự phòng viêm kết mạc ở trẻ sơ sinh, khuyến cáo của WHO đề nghị một trong những lựa chọn sau để nhỏ/ tra mắt ngay sau sinh: • Thuốc mỡ Tetracyclin hydroclorid 1%. • Thuốc mỡ Erythromycin 0,5%. • Dung dịch (nước) Povidone iodine 2,5%. • Dung dịch bạc nitrat 1%. • Thuốc mỡ Chloramphenicol 1%. Lưu ý: Chi phí và tình hình đề kháng với Erythromycin, Tetracycline và Chloramphenicol tại địa phương trong nhiễm lậu cầu có thể quyết định sự lựa chọn điều trị. Thận trọng tránh chạm vào mô mắt khi điều trị tại chỗ và sử dụng dung dịch (nước) Povidone iodine. KHÔNG SỬ DỤNG DUNG DỊCH (CỒN) POVIDONE IODINE. |
Khuyến cáo có điều kiện, mức độ chứng cứ thấp |
Tài liệu tham khảo
WHO Guidelines for the Treatment of Neisseria gonorrhoeae (2016).
Việc bẻ, nghiền viên nén không bao, bao phim, bao đường hoặc mở viên nang giải phóng dược chất tức thì không làm thay đổi sinh khả dụng của thuốc và giúp bệnh nhân tuân thủ điều trị tốt hơn
Trẻ em không phải người lớn thu nhỏ. Các yếu tố dược động học ở trẻ sơ sinh thay đổi liên tục do sự phát triển nhanh về sinh lý. Tiêm tĩnh mạch thường được sử dụng trong điều trị cho trẻ sơ sinh, đặc biệt khi trẻ đang điều trị tại đơn vị chăm sóc tích cực. Khi tiêm tĩnh mạch, hiệu quả gần như tức thời. Hầu hết các loại thuốc tiêm tĩnh mạch cho trẻ sơ sinh có những yêu cầu riêng về độ pha loãng và/hoặc tốc độ truyền.
Trong giai đoạn năm 2018-2021, Mạng lưới An toàn Chăm sóc Sức khỏe Quốc gia (NHSN) đã báo cáo rằng 0,4% (n = 1.951) các ca nhiễm trùng mắc phải tại bệnh viện (HAI) ở Hoa Kỳ nguyên nhân do Acinetobacter spp. gây ra. Trong số này có 28-45% không nhạy cảm với kháng sinh carbapenem (tức là trung gian hoặc đề kháng).
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCT), BLING III cung cấp bằng chứng việc sử dụng truyền liên tục (CI) so với truyền ngắt quãng piperacillin/tazobactam và meropenem trên bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Điều này được củng cố bởi một đánh giá tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp (SRMA) của 18 RCT về CI hoặc truyền kéo dài (EI) (thời gian từ 3–4 giờ) các kháng sinh beta-lactam. Thách thức hiện nay là chuyển đổi CI như một tiêu chuẩn chăm sóc cho bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Các cân nhắc chính bao gồm các vấn đề sau:
Các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Alabama tại Birmingham, đã tiến hành phân tích dữ liệu thứ cấp trên đối tượng phụ nữ tăng huyết áp mạn tính trong thai kỳ, so sánh với phương pháp điều trị chính. Tăng huyết áp mạn tính nhẹ trong nghiên cứu được định nghĩa là huyết áp 140-159/90-104 mmHg trước 20 tuần của thai kỳ.
Nội dung chi tiết vui lòng xem file đính kèm