Thông tin thuốc tháng 11/2017: Cập nhật thông tin về chủng ngừa vắc xin bạch hầu, ho gà, uốn ván ở phụ nữ mang thai
Hiệp hội sản phụ khoa Hoa Kỳ (ACOG) khuyến cáo như sau:
- Vắc xin chứa giải độc tố uốn ván, giải độc tố bạch hầu và ho gà không tế bào (Tdap) nên được chủng ngừa cho tất cả các phụ nữ mang thai trong mỗi thai kỳ, càng sớm càng tốt từ 27 – 36 tuần tuổi thai.
- Phụ nữ mang thai nên được tư vấn rằng việc chủng ngừa vắc xin Tdap trong mỗi thai kỳ là an toàn và quan trọng để đảm bảo rằng mỗi trẻ sinh ra được bảo vệ tốt nhất chống lại bệnh ho gà.
- Các bác sĩ sản phụ khoa được khuyến khích cung cấp và quản lý vắc xin Tdap tại phòng khám.
- Các thành viên trong gia đình và người chăm sóc trẻ sơ sinh nên chủng ngừa Tdap nếu chưa được chủng ngừa trước đó. Tốt nhất là mọi người trong gia đình nên chủng ngừa ít nhất 2 tuần trước khi tiếp xúc với trẻ sơ sinh.
- Nếu không chủng ngừa trong thời kỳ mang thai, nên tiêm vắc xin Tdap ngay sau khi sinh nếu người phụ nữ chưa bao giờ chủng ngừa Tdap trước đó trong các giai đoạn vị thành niên, trưởng thành hoặc trong các lần mang thai trước.
- Có những trường hợp nhất định cần sử dụng vắc xin Tdap ngoài thời gian 27 – 36 tuần. Ví dụ, trong trường hợp điều trị vết thương, cơn ho gà hoặc các trường hợp giảm nhẹ khác, cần thiết để bảo vệ khỏi lây nhiễm thay cho việc tiêm vắc xin trong thời gian 27 – 36 tuần của thai kỳ.
- Nếu phụ nữ mang thai được chủng ngừa sớm trong thai kỳ (ví dụ trước khoảng thời gian 27 – 36 tuần) thì không cần phải chủng ngừa nữa khi 27 – 36 tuần.
Các tình huống đặc biệt trong thai kỳ:
Bùng phát dịch bệnh:
Phụ nữ mang thai sống ở các khu vực có các ổ dịch mới hoặc có dịch tễ bệnh ho gà nên được chủng ngừa càng sớm càng tốt để bảo vệ bản thân theo khuyến cáo địa phương dành cho những người trưởng thành và không mang thai. Trong những tình huống này, thời điểm tối ưu chủng ngừa (từ 27 đến 36 tuần tuổi thai) thường ít được lưu tâm hơn để bảo vệ người phụ nữ khỏi bệnh phổ biến ở địa phương. Việc bảo vệ trẻ sơ sinh vẫn được duy trì khi việc chủng ngừa được thực hiện sớm hơn trong cùng lần mang thai. Điều quan trọng là phụ nữ mang thai không nên tiêm ngừa nhắc lại trong cùng lần mang thai nếu đã được chủng ngừa trong tam cá nguyệt thứ nhất hoặc thứ hai.
Điều trị vết thương:
Là một phần trong việc chăm sóc điều trị vết thương chuẩn để phòng ngừa uốn ván, vắc xin chứa giải độc tố uốn ván được khuyến cáo chủng ngừa ở phụ nữ mang thai nếu đã từ 5 năm trở lên kể từ lần chủng ngừa uốn ván và bạch hầu (Td) trước đó. Nếu phụ nữ mang thai được chỉ định chủng ngừa Td nhắc lại để điều trị vết thương cấp thì bác sĩ sản phụ khoa hoặc nhân viên y tế nên chỉ định tiêm vắc xin Tdap, bất kể tuổi thai. Phụ nữ mang thai không nên tiêm ngừa nhắc lại Tdap trong cùng lần mang thai nếu đã được chủng ngừa trong tam cá nguyệt thứ nhất hoặc thứ hai.
Chỉ định chủng ngừa nhắc lại uốn ván và bạch hầu:
Nếu một phụ nữ mang thai được chỉ định chủng ngừa nhắc lại vắc xin Td (ví dụ từ 10 năm trở lên từ lần chủng ngừa vắc xin Td trước đó) thì các bác sĩ sản phụ khoa và nhân viên y tế nên chỉ định tiêm vắc xin Tdap vào 27 – 36 tuần tuổi thai. Khuyến cáo này là do tính chất không khẩn cấp và mong muốn có miễn dịch từ người mẹ. Điều này cũng sẽ tối đa hóa việc truyền kháng thể cho trẻ sơ sinh.
Chưa chủng ngừa uốn ván hoặc chủng ngừa uốn ván không đầy đủ:
Để đảm bảo sự bảo vệ cho mẹ và trẻ sơ sinh, phụ nữ mang thai chưa từng chủng ngừa uốn ván nên bắt đầu chủng ngừa vắc xin 3 trong 1 trong đó có chứa giải độc tố uốn ván, giải độc tố bạch hầu khi mang thai. Lịch tiêm được khuyến nghị cho vắc xin này là vào 0 tuần, 4 tuần và 6 – 12 tháng. Vắc xin Tdap nên được thay thế cho Td và tốt nhất là được cho trong khoảng từ 27 đến 36 tuần tuổi thai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Update on Immunization and Pregnancy: Tetanus, Diphtheria, and Pertussis Vaccination The American College of Obstetricians and Gynecologosts. Committee opinion, number 718, September 2017.
Độc tính trên thận do thuốc là nguyên nhân phổ biến gây ra tổn thương thận cấp tính (AKI) và kháng sinh (KS) là một trong những nhóm thuốc lớn nhất liên quan đến AKI. Cơ chế gây độc tính trên thận do KS bao gồm tổn thương cầu thận, tổn thương hoặc rối loạn chức năng ống thận, tắc nghẽn ống lượn xa do trụ niệu và viêm thận kẽ cấp tính (AIN) do phản ứng quá mẫn loại IV (loại chậm). Các biểu hiện lâm sàng của độc tính trên thận do KS bao gồm hoại tử ống thận cấp (ATN), AIN và hội chứng Fanconi.
Trong 6 tháng đầu năm 2025, Bệnh viện Từ Dũ ghi nhận 204 báo cáo ADR, tăng 1,3 lần so với cùng kỳ năm 2024 (160 báo cáo).
Việc sử dụng hệ thống phóng thích Levonorgestrel trong tử cung (LNG-IUS: Levonorgestrel-releasing intrauterine system) có liên quan đến tăng nguy cơ ung thư vú. Một nghiên cứu ở Đan Mạch ghi nhận 14 trường hợp ung thư vú trên 10.000 phụ nữ tránh thai bằng LNG-IUS so với phụ nữ tránh thai không dùng nội tiết.
Theo kết quả của một nghiên cứu trên JAMA Network Open, tiêm vắc-xin cúm không liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc các kết quả bất lợi trong thời kỳ chu sinh đối với những người mang thai liên tiếp. Các tác giả nghiên cứu cho biết những phát hiện này ủng hộ các khuyến nghị hiện tại cho những người mang thai hoặc những người có thể mang thai trong mùa cúm.
Staphylococcus aureus, một loại vi khuẩn gram dương, là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do nhiễm trùng huyết trên toàn thế giới, với tỷ lệ tử vong từ 15% đến 30% và ước tính có 300.000 ca tử vong mỗi năm.
Các loài thuộc chi Candida là một phần của hệ vi sinh vật thường trú trong âm đạo có khoảng 25% ở phụ nữ, do vậy việc phát hiện nấm không đủ để chẩn đoán bệnh. Ước tính có 75% phụ nữ bị nhiễm nấm candida âm đạo ít nhất một lần trong đời. Nồng độ estrogen và tăng sản xuất glycogen ở âm đạo, tình trạng này xảy ra thường gặp và nghiêm trọng hơn trong thai kỳ. Trong thời kỳ mang thai, bệnh có liên quan đến những kết quả bất lợi trong sản khoa như vỡ ối sớm, chuyển dạ sớm, viêm màng ối, nhiễm nấm candida da ở trẻ sơ sinh và nhiễm trùng hậu sản 1. Bệnh viêm âm hộ-âm đạo do nấm candida là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất có triệu chứng gây ngứa và tiết dịch âm đạo. Biểu hiện của bệnh là tình trạng viêm thường gặp ở các loài nấm Candida với các triệu chứng là ngứa và viêm đỏ.