Thông tin thuốc tháng 2 năm 2020
1. Tổng quan số lượng báo cáo ADR của Bệnh viện Từ Dũ
Tổng số báo cáo ADR trong năm 2019 tại Bệnh viện Từ Dũ là 355 báo cáo, tăng 8,6% so với năm 2018 (327 báo cáo), là một trong tám Bệnh viện được nhận khen thưởng với thành tích hoạt động tốt trong công tác báo cáo ADR toàn quốc 2019.
Nhận xét:
- Số lượng báo cáo ADR phân bố tương đối đều giữa các tháng, với số lượng trung bình vào khoảng 30 báo cáo ADR/tháng (trung bình năm 2018 là 26 báo cáo ADR/tháng). Điều này thể hiện sự quan tâm nhiều hơn của nhân viên y tế đến việc báo cáo các phản ứng có hại của thuốc. 100% báo cáo ADR của các khoa được thực hiện dễ dàng, kịp thời qua phần mềm trực tuyến,. Số lượng báo cáo ADR tăng cao nhất vào tháng 8, 9, 10, và thấp nhất vào tháng 1, tương ứng với số lượng bệnh nhân của bệnh viện tại các thời điểm này.
- Các khoa lâm sàng đã gửi các báo cáo ADR đến khoa Dược sớm hơn, để khoa Dược kiểm tra và tổng hợp gửi về Trung tâm DI & ADR Quốc gia, đảm bảo việc tuân thủ về thời gian gửi báo cáo ADR theo Hướng dẫn của Trung tâm đối với các phản ứng đặc biệt nghiêm trọng (tử vong, đe dọa tính mạng, kéo dài thời gian nằm viện, tàn tật vĩnh viễn, dị tật thai nhi).
3. Phân bố số lượng báo cáo ADR theo Khoa
|
Nhận xét: Khoa Sản N2 và Sản N1 tiếp tục giữ vững thành tích từ năm 2018, có số lượng báo cáo ADR nhiều nhất. Khoa Sản H có cải thiện lớn nhất trong số lượng báo cáo ADR, có số lượng báo cáo ADR tăng hơn gấp đôi so với năm 2018 (23 báo cáo ADR). Các báo cáo ADR gần như đầy đủ thông tin, một số ít báo cáo thiếu chữ ký của người báo cáo (khoảng 3,4%). Sản A có lượng báo cáo ADR thấp nhất.
4. Phân bố số lượng báo cáo ADR theo người báo cáo
Đối tượng báo cáo |
Số lượng |
Tỷ lệ% |
Bác sĩ |
89 |
25,1 |
Hộ sinh |
254 |
71,5 |
Dược sĩ |
12 |
3,4 |
Nhận xét: Tỉ lệ đối tượng báo cáo ADR không thay đổi nhiều so với năm 2018. Đối tượng báo cáo chủ yếu vẫn là Hộ sinh (71,5%), sau đó là Bác sĩ (25,1%) và Dược sĩ (3,4%).
5. Phân bố số lượng báo cáo ADR theo nhóm thuốc
Nhóm thuốc |
Số lượng |
Tỷ lệ% |
Thuốc giảm đau, hạ sốt không steroid
|
160 155 |
45,1 (96.9%) |
Kháng sinh
|
142 55 12 |
40,0 (38,7) (8,5) |
Thuốc giảm đau, hạ sốt khác |
13 |
3,7 |
Thuốc chấm dứt thai kỳ |
12 |
3,7 |
Thuốc điều trị ung thư |
7 |
2,0 |
Thuốc chứa estrogen, progesterone, testosterone |
4 |
1,1 |
Thuốc khác |
10 |
2,8 |
Không xác định được thuốc gây ADR |
7 |
2,0 |
Tổng |
355 |
100 |
Nhận xét: Số lượng báo cáo ADR theo nhóm thuốc không thay đổi nhiều so với năm 2018, hai nhóm thuốc chiếm tỉ lệ cao nhất trong số các báo cáo ADR là thuốc giảm đau, hạ sốt không steroid - NSAID (45,1%) và kháng sinh (40,0%). Trong nhóm NSAID, Diclofenac chiếm đến 96,9% số báo cáo ADR. Trong nhóm kháng sinh, Vitafxim chiếm 38,7% số báo cáo ADR. Kết quả này tương ứng với số lượng sử dụng của các thuốc này. Ngoài ra, có 7 trường hợp ADR không xác định được rõ thuốc gây ADR do dùng đồng thời nhiều thuốc và không loại trừ được dị ứng do nguyên nhân khác.
6. Phân bố số lượng báo cáo ADR theo cơ địa bệnh nhân
Nhận xét: Số báo cáo ADR trên bệnh nhân có tiền căn dị ứng thuốc là 18%, tăng so với năm 2018 (10,3%). Trong đó, các khoa cần cân nhắc trong việc chỉ định Paracetamol đối với bệnh nhân có tiền sử dị ứng với Alaxan (Paracetamol + Ibuprofen).
Phân loại tiền căn dị ứng thuốc
Trên số bệnh nhân dị ứng thuốc, phân loại tiền sử về dị ứng thuốc được ghi nhận như sau:
- 47,6% dị ứng thức ăn, hải sản
- 22,2% dị ứng thuốc không rõ loại
- 15,8% dị ứng kháng sinh không rõ loại
Các khoa cần lưu ý việc khai thác tiền sử người bệnh và chỉ định thuốc điều trị; có thể phối hợp với Dược sĩ lâm sàng trong công tác khai thác tiền sử dị ứng và lựa chọn thuốc.
7. Kết luận
Việc thực hiện báo cáo ADR đang được thực hiện nghiêm túc tại Bệnh viện Từ Dũ và đã có những bước cải tiến qua từng năm với việc gia tăng số lượng, chất lượng các báo cáo ADR và tuân thủ thời gian gửi báo cáo ADR về Trung tâm DI & ADR Quốc gia. Trong năm 2020, Khoa Dược sẽ tăng cường giám sát công tác báo cáo ADR thông qua việc kiểm tra đối chiếu số lượng thuốc kháng dị ứng sử và việc báo cáo ADR .
Tài liệu:
Bảng thống kê báo cáo ADR năm 2019 của Đơn vị Thông tin thuốc.
Trong giai đoạn năm 2018-2021, Mạng lưới An toàn Chăm sóc Sức khỏe Quốc gia (NHSN) đã báo cáo rằng 0,4% (n = 1.951) các ca nhiễm trùng mắc phải tại bệnh viện (HAI) ở Hoa Kỳ nguyên nhân do Acinetobacter spp. gây ra. Trong số này có 28-45% không nhạy cảm với kháng sinh carbapenem (tức là trung gian hoặc đề kháng).
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCT), BLING III cung cấp bằng chứng việc sử dụng truyền liên tục (CI) so với truyền ngắt quãng piperacillin/tazobactam và meropenem trên bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Điều này được củng cố bởi một đánh giá tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp (SRMA) của 18 RCT về CI hoặc truyền kéo dài (EI) (thời gian từ 3–4 giờ) các kháng sinh beta-lactam. Thách thức hiện nay là chuyển đổi CI như một tiêu chuẩn chăm sóc cho bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Các cân nhắc chính bao gồm các vấn đề sau:
Các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Alabama tại Birmingham, đã tiến hành phân tích dữ liệu thứ cấp trên đối tượng phụ nữ tăng huyết áp mạn tính trong thai kỳ, so sánh với phương pháp điều trị chính. Tăng huyết áp mạn tính nhẹ trong nghiên cứu được định nghĩa là huyết áp 140-159/90-104 mmHg trước 20 tuần của thai kỳ.
Nhiễm trùng huyết – sepsis - vẫn là một trong những nguyên nhân gây tử vong lớn nhất trên thế giới, Tổ chức Y tế Thế giới ước tính 11 triệu người tử vong mỗi năm do tình trạng này. Các yếu tố chính của việc quản lý sepsis là chẩn đoán sớm, liệu pháp kháng sinh kinh nghiệm sớm và phù hợp, với biện pháp kiểm soát nguồn gây bệnh thích hợp và bảo tồn chức năng các cơ quan.
Sự ra đời của vắc-xin giúp chúng ta chủ động phòng chống các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Tổ chức y tế thế giới ước tính chương trình tiêm chủng hiện nay giúp ngăn ngừa 3,5-5 triệu ca tử vong mỗi năm do các bệnh như bạch hầu, uốn ván, ho gà, cúm và sởi [2].
Phòng ngừa suy nhược, mệt mỏi, đau nhức:
Hoạt động mỗi ngày đi bộ ngắn, tập các bài tập nhẹ nhàng. Giữ tinh thần ổn định
Chế độ ăn hợp lý trao đổi thêm với bác sĩ về dinh dưỡng bổ sung (thực phẩm giàu protein như thịt, cá, phô mai, sữa chua...). Uống nhiều nước, trừ khi có hướng dẫn khác.
Chườm khăn lạnh nếu có nhức mỏi, đau cơ.