Thông tin thuốc tháng 7/2017
BÁO CÁO SƠ KẾT ADR 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2017 TẠI BỆNH VIỆN TỪ DŨ
Tổng số báo cáo ADR trong 6 tháng đầu năm 2017 tại Bệnh viện Từ Dũ từ các khoa phòng là 115 báo cáo, là 1 trong 10 bệnh viện báo cáo ADR nhiều nhất trong 6 tháng đầu năm 2017. So với số lượng báo cáo ADR 6 tháng đầu năm 2016 (83 báo cáo), số lượng báo cáo ADR tăng 38%
Về chất lượng báo cáo ADR:
Các báo cáo ADR có khoảng 96% báo cáo đạt đầy đủ thông tin khi gởi về Khoa Dược. Các báo cáo trước khi gởi cho Trung tâm ADR đều được bổ sung đầy đủ thông tin.
1.Phân bố theo tháng:
Nhận xét:
Số lượng báo cáo ADR phân bố đều trong các tháng, trung bình 19.2 báo cáo/tháng, tăng so với 6 tháng đầu năm 2015 (13.8 báo cáo/tháng), tập trung nhiều hơn vào tháng 5 với 25 báo cáo chiếm tỷ lệ 21.7%. Số lượng báo cáo ADR nhận được ít nhất vào tháng 6 với 9 báo cáo chiếm tỷ lệ 7.8%
2.Phân bố số báo cáo ADR theo Khoa:
Nhận xét:
Số lượng báo cáo ADR từ khoa Hậu Sản N cao nhất với 24 báo cáo chiếm tỷ lệ 20.9%, tiếp theo là khoa Sanh với 17 báo cáo chiếm tỷ lệ 14.8%, khoa Hậu sản M và PTGMHS với 16 báo cáo chiếm tỷ lệ 13.9%. Đây là những khoa rất tích cực trong công tác theo dõi và báo cáo ADR góp phần đánh giá lợi ích, nguy cơ của thuốc, tăng cường sử dụng thuốc an toàn, hợp lý và hiệu quả.
3. Phân bố số báo cáo ADR theo người báo cáo
|
Số báo cáo ADR |
Tỷ lệ |
Bác sĩ |
38 |
33% |
Dược sĩ |
13 |
11.3% |
NHS |
64 |
55.7% |
Nhận xét: Đối tượng báo cáo ADR chủ yếu là Bác sĩ với 38 báo cáo chiếm tỷ lệ 33%, có giảm so với 6 tháng đầu năm 2016 (49.4%), tiếp theo là Nữ hộ sinh với 64 báo cáo chiếm tỷ lệ 55.7%, tăng so với 6 tháng đầu năm 2016 (47%), Dược sĩ với 13 báo cáo chiếm tỷ lệ 11.3%, tăng so với 6 tháng đầu năm 2016 (3.6%)
4. Phân bố số báo cáo ADR theo nhóm thuốc
STT |
Nhóm thuốc |
Số báo cáo ADR |
Tỷ lệ |
1 |
Kháng sinh |
65 |
56.5% |
2 |
Thuốc giảm đau |
33 |
28.7% |
3 |
Thuốc khác |
17 |
14.8% |
Nhận xét: Kháng sinh là nhóm thuốc có tỷ lệ báo cáo ADR nhiều nhất với 65 báo cáo chiếm tỷ lệ 56.5% tăng so với 6 tháng đầu năm 2016 (51.8%), tiếp theo là thuốc giảm đau với 33 báo cáo chiếm tỷ lệ 28.7%, giảm so với 6 tháng đầu năm 2016 (32.5%).
Có ghi nhận 01 ca báo cáo ADR từ thuốc ung thư trong 6 tháng đầu năm 2017
5. Phân bố số báo cáo ADR theo cơ địa bệnh nhân
Nhận xét: Số báo cáo ADR trên bệnh nhân không có tiền căn dị ứng thuốc là 89 báo cáo chiếm tỷ lệ 77.4%, giảm so với 6 tháng đầu năm 2016 (80.7%). Số báo cáo ADR trên bệnh nhân có tiền căn dị ứng thuốc là 26 báo cáo chiếm tỷ lệ 22.6%, tăng so với 6 tháng đầu năm 2016 (19.3%), thể hiện nhân viên y tế có sự quan tâm trong việc khai thác tiền sử dị ứng của bệnh nhân, do vậy nên theo dõi sát bệnh nhân khi chỉ định sử dụng thuốc để kịp thời xử trí ADR.
6. Những thuốc được báo cáo nhiều nhất
Các thuốc nghi ngờ gây phản ứng có hại xuất hiện nhiều nhất trong các báo cáo ADR thuộc 2 nhóm chính là:
- Nhóm thuốc kháng sinh (65 báo cáo) với đại diện là Cefotaxim, Cefadroxil, Augbactam trong đó Cefotaxim chiếm tỷ lệ cao nhất với 47.7% (31 báo cáo), giảm so với 6 tháng đầu năm 2016 (58.1%)
- Nhóm thuốc kháng viêm giảm đau (33 báo cáo) với đại diện là Diclofenac, Ketoprofen trong đó Diclofenac chiếm tỷ lệ cao nhất với 81.8% (27 báo cáo) giảm so với 6 tháng đầu năm 2016 (85.2%)
Tiêm chủng cho mẹ giúp bảo vệ cả mẹ và thai nhi khỏi một số bệnh nhiễm trùng. Lý tưởng nhất là tiêm chủng trước khi thụ thai, nhưng trong một số trường hợp, việc tiêm chủng trong thai kỳ cũng được chỉ định.
Nhiều bằng chứng cho thấy rằng, việc sử dụng kháng sinh ở bệnh nhân tiên lượng nặng bị suy thận cấp (STC) thường không đạt được mục tiêu dược lực học và tỉ lệ tử vong cao liên quan đến nhiễm trùng. Do đó, bài viết này đánh giá những thay đổi thông số về dược động học và dược lực học trên bệnh nhân nặng có STC và đề xuất những giải pháp để có thể tối ưu liều dùng kháng sinh trên những bệnh nhân này.
Trong bản dự thảo cuối cùng, Viện Y tế và Chất lượng Điều trị Quốc gia Anh (NICE) cho biết relugolix-estradiol-norethisterone là một lựa chọn để điều trị các triệu chứng lạc nội mạc tử cung ở những người phụ nữ trưởng thành đang trong độ tuổi sinh sản, nhưng không đáp ứng với phương pháp điều trị nội khoa hoặc phẫu thuật trước đó.
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), có khoảng 10% bệnh nhân tại Mỹ được báo cáo bị dị ứng penicillin. Tuy nhiên, dưới 1% bị dị ứng qua trung gian IgE (loại 1) và các nhà nghiên cứu lưu ý rằng, khoảng 80% bệnh nhân này sẽ mất độ nhạy cảm sau 10 năm. Hơn nữa, CDC khuyến nghị cần xác định những bệnh nhân không thực sự dị ứng penicillin để giảm việc sử dụng kháng sinh phổ rộng không cần thiết. Phản ứng chéo giữa penicillin và cephalosporinlà rất hiếm, nhưng nhiều bác sĩ tránh kê đơn cephalosporin cho bệnh nhân bị dị ứng penicillin, dẫn đến tăng cường sử dụng các loại kháng sinh khác như là quinolon, macrolid, clindamycin, carbapenem và vancomycin, thường gặp nhiều tác dụng phụ hơn, tăng chi phí chăm sóc sức khỏe và góp phần vào tình trạng đề kháng kháng sinh
Độc tính trên thận do thuốc là nguyên nhân phổ biến gây ra tổn thương thận cấp tính (AKI) và kháng sinh (KS) là một trong những nhóm thuốc lớn nhất liên quan đến AKI. Cơ chế gây độc tính trên thận do KS bao gồm tổn thương cầu thận, tổn thương hoặc rối loạn chức năng ống thận, tắc nghẽn ống lượn xa do trụ niệu và viêm thận kẽ cấp tính (AIN) do phản ứng quá mẫn loại IV (loại chậm). Các biểu hiện lâm sàng của độc tính trên thận do KS bao gồm hoại tử ống thận cấp (ATN), AIN và hội chứng Fanconi.
Trong 6 tháng đầu năm 2025, Bệnh viện Từ Dũ ghi nhận 204 báo cáo ADR, tăng 1,3 lần so với cùng kỳ năm 2024 (160 báo cáo).