Thông tin thuốc tháng 9/2016: Kháng sinh Ticarcilin + Acid clavulanic và Cefuroxim
1. Kháng sinh Ticarcilin 3 g kết hợp với Acid clavulanic 0,2 g (biệt dược Viticalat)
Ticarcilin là một kháng sinh có phổ rộng, hiệu lực diệt khuẩn trên nhiều loại vi khuẩn Gram dương, Gram âm hiếu khí và vi khuẩn kỵ khí. Thuốc dễ bị mất tác dụng bởi các enzym b-lactamase do đó phổ hoạt động không bao gồm các chủng vi khuẩn tiết các enzym này.
Ticarcilin kết hợp với Acid clavulanic giúp mở rộng phổ diệt khuẩn của thuốc này đối với các chủng vi khuẩn tiết beta-lactamase như Staphylococci, nhiều loài Enterobacteriaceae, Haemophilus influenzae, Bacteroides spp. nhưng không tăng hoạt tính diệt khuẩn với Pseudomonas aeruginosa.
- Chỉ định
Chỉ định trong điều trị bệnh nhiễm khuẩn đường hô hấp dưới, nhiễm khuẩn da, mô mềm và cấu trúc da, nhiễm khuẩn xương – tủy, viêm phổi, viêm màng não do Heamophilus influenzae, nhiễm khuẩn huyết, nhiễm trùng đường tiết niệu, sinh dục, ổ bụng, tử cung và vùng chậu.
- Liều dùng ở người lớn
Liều dùng được tính trên dạng phối hợp Ticarcilin + Acid clavulanic (tỷ lệ 15:1). Liều dùng nên được xác định bởi mức độ nhiễm khuẩn, tình trạng của bệnh nhân và độ nhạy cảm của vi khuẩn gây bệnh.
Liều thường dùng là 3,2 g mỗi 6-8 giờ, đối với nhiễm khuẩn nặng có thể truyền TM mỗi 4 giờ.
- Cách dùng
Hòa tan 1 lọ thuốc bột với 13 ml nước cất pha tiêm. Lắc đều. Pha loãng tiếp với 100ml dung dịch Natri clorid 0,9% truyền tĩnh mạch chậm hơn 30 phút.
- Một số lưu ý khi sử dụng
- Ticarcilin dùng chung với các aminoglycosid cho tác dụng hiệp đồng trên Pseudomonas aeruginosa và Enterobacteriaceae. Nếu dùng đồng thời những thuốc này, phải tiêm vào những chỗ khác nhau và cách nhau ít nhất 1 giờ.
- Với người suy tim sung huyết, tăng huyết áp, suy thận cần hạn chế muối phải lưu ý đến lượng natri chứa trong liều cao Ticarcilin.
- Cân nhắc về khả năng có biến chứng chảy máu, đặc biệt khi dùng thuốc cho người suy thận hoặc có tiền sử rối loạn chảy máu.
- Cần hiệu chỉnh liều trong trường hợp bệnh nhân bị suy gan thận.
2. Kháng sinh Cefuroxim 750 mg
Cefuroxim là một kháng sinh thuộc nhóm cephalosporin thế hệ 2. Thuốc có hoạt tính kháng khuẩn với nhiều tác nhân gây bệnh thông thường, kể cả các chủng tiết b-lactamase/ cephalosporinase của các vi khuẩn Gram dương và Gram âm. Thuốc có hoạt tính in vitro trên vi khuẩn Gram âm tốt hơn các kháng sinh cephalosporin thế hệ 1 nhưng kém hơn so với các kháng sinh cephalosporin thế hệ 3.
- Chỉ định
Chỉ định trong điều trị các nhiễm khuẩn thể nặng đường hô hấp dưới (kể cả viêm phổi), nhiễm khuẩn da và mô mềm, nhiễm khuẩn xương khớp, nhiễm khuẩn thể nặng tiết niệu – sinh dục, nhiễm khuẩn huyết và viêm màng não do các vi khuẩn nhạy cảm gây ra. Dự phòng nhiễm khuẩn trong phẫu thuật.
- Liều dùng ở người lớn
Liều dùng phụ thuộc vào mức độ nhiễm khuẩn. Liều thường dùng là 750 mg - 1,5 g mỗi 8 giờ trong 5-10 ngày. Trường hợp nhiễm khuẩn nặng đe dọa đến tính mạng có thể dùng liều 1,5 g mỗi 6 giờ.
- Cách dùng
- Tiêm bắp: Hòa tan 750 mg thuốc bột pha tiêm với 3 ml nước cất pha tiêm. Lắc đều hỗn dịch trước khi tiêm. Tiêm bắp sâu vào vùng cơ lớn như mông hoặc mặt trong của đùi.
- Tiêm tĩnh mạch: Hòa tan 750 mg thuốc bột pha tiêm với 8 ml nước cất pha tiêm. Dung dịch này có thể tiêm chậm trực tiếp vào tĩnh mạch hoặc vào dây truyền dịch có chứa dịch truyền tương hợp trong thời gian ít nhất là 5 phút.
- Truyền tĩnh mạch ngắt quãng và truyền tĩnh mạch liên tục: Hòa tan 750 mg thuốc bột pha tiêm với 50 ml nước cất pha tiêm hoặc dung dịch Dextrose 5% hoặc dung dịch Natri clorid 0,9%. Truyền tĩnh mạch ngắt quãng 30 phút.
- Một số lưu ý khi sử dụng
- Cân nhắc chuyển sử dụng từ Cefuroxim đường tiêm sang Cefuroxim đường uống nếu tình trạng nhiễm khuẩn của bệnh nhân đã ổn định (48-72 giờ sau khi sử dụng kháng sinh tiêm).
- Không truyền chung Cefuroxim với các kháng sinh aminoglycosid trên cùng 1 dây truyền dịch hoặc 2 dây truyền dịch khác nhau qua vị trí chữ Y.
- Cần hiệu chỉnh liều trong trường hợp bệnh nhân bị suy thận.
Tài liệu tham khảo
- Dược thư quốc gia Việt Nam (2015).
- Thông tin kê toa sản phẩm.
- Betty L. Gahart, Adrienne R. Nazareno. Intravenous medications. 2010.
- https://www.drugs.com.
Việc nhai, bẻ, nghiền các loại thuốc viên đôi khi cần thiết trong một số trường hợp. Tuy nhiên, các thuốc có dạng bào chế đặc biệt nếu bị nhai, bẻ, nghiền có thể ảnh hưởng đến tác dụng điều trị và tính an toàn của thuốc. Chẳng hạn như nếu nghiền viên phóng thích chậm hoặc phóng thích kéo dài sẽ gây phóng thích một lượng lớn hoạt chất tại một thời điểm nhất định, gây quá liều thuốc và gây nguy hiểm cho người bệnh. Nghiền viên bao tan trong ruột có thể làm cho thuốc bị bất hoạt ở dạ dày hoặc gây kích ứng cho đường tiêu hóa.
Cúm là một bệnh đường hô hấp cấp tính do vi-rút cúm A hoặc B gây ra, xảy ra thành các đợt bùng phát và dịch bệnh trên toàn thế giới, chủ yếu vào mùa đông. Tỷ lệ mắc bệnh và tử vong liên quan đến cúm cao hơn ở những phụ nữ mang thai và mới sinh (trong vòng hai tuần sau khi sinh hoặc sảy thai) so với dân số nói chung.
Probiotics được định nghĩa là “các vi sinh vật sống, khi được đưa vào cơ thể với số lượng đủ, sẽ mang lại lợi ích cho sức khỏe của vật chủ”. Các chủng vi khuẩn tạo axit lactic là quan trọng nhất trong thực phẩm và dinh dưỡng, chủng thuộc chi Lactobacillus và Bifidobacterium là những probiotic được sử dụng phổ biến nhất, ngoài ra còn kể đến các chi Bacillus, Streptococcus, Enterococcus, Saccharomyces và Escherichia coli
- Bệnh viện đã thực hiện 378 báo cáo ADR, giảm 7,9% so với năm 2023 (408 báo cáo), tăng 14,2% so với năm 2022 (331 báo cáo).
- Số lượng báo cáo ADR ngoại trú là 18 báo cáo, giảm 3,6 lần so với năm 2023 (66 báo cáo).
- Bệnh viện Từ Dũ được Trung tâm DI&ADR quốc gia xếp hạng 8/991 cơ sở khám chữa bệnh có hoạt động theo dõi ADR hiệu quả trong báo cáo tổng kết ADR quốc gia vào tháng 9/2024.
Mirvetuximab soravtansine-gynx đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt điều trị cho bệnh nhân trưởng thành mắc ung thư biểu mô buồng trứng, ống dẫn trứng, hoặc ung thư phúc mạc nguyên phát dương tính với thụ thể folat alpha (FRα), kháng hóa trị, là những bệnh nhân đã trải qua 3 liệu trình điều trị trước đó. Theo các chuyên gia, bệnh nhân mắc các loại ung thư này thường được phát hiện khi bệnh đã ở giai đoạn muộn, trải qua phẫu thuật và sau đó được điều trị bằng phác đồ hóa trị có platinum nhưng có thể trở nên kháng thuốc.
Kháng sinh (KS) phổ rộng được xem như “thần dược” để điều trị các bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng hoặc đe dọa tính mạng khi tác nhân gây bệnh chưa được xác định. Mục đích sử dụng KS phổ rộng nhằm bao phủ nhiều loại tác nhân vi khuẩn gram dương và gram âm, bao gồm cả các tác nhân kháng thuốc trong khi chờ kết quả nuôi cấy. Tuy nhiên, việc sử dụng bừa bãi các KS phổ rộng cũ và mới đã góp phần đáng kể vào sự gia tăng tình trạng kháng kháng sinh (AMR) – một vấn đề sức khỏe toàn cầu đáng lưu ý.