Thông tin về kháng sinh sử dụng trong thời kỳ cho con bú
DS. Đặng Thị Thuận Thảo
Khoa Dược – BV Từ Dũ
I. Tổng quan
Việc chỉ định kháng sinh trong thời kỳ cho con bú cần phải cân nhắc giữa lợi ích trên người mẹ và nguy cơ của trẻ khi không bú mẹ hoặc khả năng ảnh hưởng của thuốc trên trẻ bú mẹ. Một thuốc có thể sử dụng an toàn trong suốt thời kỳ mang thai nhưng cũng có thể không an toàn khi sử dụng trong thời kỳ cho con bú. Khả năng thuốc được vận chuyển qua sữa mẹ phụ thuộc vào sự vận chuyển thụ động những thuốc không bị ion hóa và không liên kết với protein. Những ảnh hưởng của thuốc trên trẻ bú mẹ có thể được hạn chế bằng việc chỉ định những thuốc kém hấp thu bằng đường uống hoặc tránh cho bú mẹ trong khoảng thời gian thuốc đạt nồng độ đỉnh ở người mẹ hoặc chỉ định những thuốc có tác dụng tại chỗ.
Những bằng chứng phơi nhiễm ảnh hưởng trên đứa trẻ phụ thuộc vào những liều kháng sinh sau đó ví dụ dị ứng penicilline nhưng đây là trường hợp quá liều hiếm gặp.
Những liều kháng sinh lớn có thể làm tăng sự phát triển bệnh nấm Candida trên người mẹ bằng cách giết chết vi khuẩn hệ đường ruột. Nhiều phụ nữ sử dụng những chế phẩm bổ sung acidophilus hoặc yoghurt để duy trì lại hệ cân bằng vi khuẩn.
II. Các nhóm kháng sinh
Bất kỳ thuốc nào cũng có thể qua sữa mẹ nhưng không chắc được hấp thu bởi em bé, vì vậy không nhất thiết phải trì hoãn việc cho con bú dựa trên nền tảng này.
Trong quá khứ tetracycline chống chỉ định sử dụng trên phụ nữ cho con bú vì thuốc này có thể bám trên răng chưa trưởng thành của trẻ sơ sinh (ngay cả khi không xuất hiện). Nếu thời gian điều trị ngắn thì điều này không được xem là vấn đề khi thuốc tạo phức với calcium trong sữa và không được hấp thu bởi đứa trẻ. Trong trường hợp điều trị lâu dài ví dụ như điều trị mụn trứng cá thì nên tránh sử dụng.
Metronidazole (biệt dược Flagyl) thường được chỉ định trong trường hợp nhiễm khuẩn âm đạo, được xem là có liên quan đến nguy cơ ung thư trên động vật gặm nhấm. Tuy nhiên, không có cuộc nghiên cứu nào cho thấy ung thư này có liên quan trên người, bao gồm những cuộc nghiên cứu trên trẻ sơ sinh phơi nhiễm với thuốc này trong thời gian bú mẹ. Trường hợp nặng nhất là trẻ đi phân lỏng khi bú mẹ có sử dụng Flagyl.
Metronidazole (Flagyl) có thể gây vị khó chịu cho sữa và vì vậy đứa trẻ từ chối bú mẹ. Thuốc này có thể làm thay đổi màu sữa.
Ở Mỹ, liều duy nhất 2g được sử dụng và việc cho con bú được ngưng tạm thời và các bà mẹ được đề nghị bỏ lượng sữa mẹ trong vòng 24 giờ sau khi sử dụng thuốc.
Ở Anh, sử dụng liều 200-400mg 3 lần ngày và bà mẹ vẫn cho con bú trong quá trình điều trị.
Việc dùng thuốc đường tiêm tĩnh mạch cho thấy không gây ra khó khăn trong quá trình cho trẻ bú.
Mặc dù thông tin còn hạn chế đối với những thuốc kháng nấm ví dụ như clotrimazole (Gyne-Lotrimin) hoặc miconazole (Monistat), những thuốc này qua sữa mẹ ở nồng độ thấp vì vậy việc chỉ định ít nguy cơ trên trẻ bú mẹ.
4. Những khánh sinh khác
Những kháng sinh khác được ưa chuộng hơn như trimethoprim hoặc nitrofuratoin để điều trị nhiễm trùng tiểu.
Nitrofurantoin (Furadantin, Macrodantin) chỉ có một lượng nhỏ được bài tiết qua sữa mẹ nhưng có thể gây thiếu máu tán huyết do thiếu G6PD ở trẻ sơ sinh (tình trạng hiếm gặp xảy ra trên trẻ sơ sinh). Thuốc có thể thay đổi màu nước tiểu, nước mắt và sữa của người mẹ.
Vancomycin và teicoplanin được sử dụng điều trị bệnh nhiễm trùng đề kháng MRSA. Tác dụng phụ của những thuốc này có khả năng trở nặng, do vậy cần kiểm tra công thức máu, chức năng gan thận. Việc điều trị MRSA thường sử dụng dạng thuốc tiêm bắp và tiêm tĩnh mạch.
Những kháng sinh như doxycycline (Vibramycin) hoặc minocycline (Minocine) nên tránh sử dụng trong thời kỳ cho con bú vì những thuốc này qua sữa mẹ và được hấp thu nhiều ở trẻ bú mẹ và có thể gây độc (nhuộm màu răng, giảm sự phát triển xương)
Kháng sinh điều trị nhiễm trùng bàng quang thường an toàn khi sử dụng trong thời kỳ cho con bú.
Phụ nữ cho con bú thường tăng nguy cơ nhiễm trùng bàng quang do nồng độ estrogen giảm, cơ âm đạo mỏng, pH âm đạo thay đổi và có sự tăng số lượng vi khuẩn. Do cơ âm đạo mỏng, vi khuẩn dễ dàng xâm nhập vào niệu đạo, và di chuyển lên bàng quang. Những vi khuẩn này bám trên thành bàng quang và nhân lên.
Kháng sinh điều trị nhiễm trùng này thường là thường thuộc nhóm sulfat. Ciprofloxacin và dẫn xuất, nitrofurantoin thường được xem là an toàn khi sử dụng trong thời kỳ cho con bú.
Trẻ sơ sinh bú mẹ có sử dụng kháng sinh như penicillins, cephalosporins, macrolides, và aminoglycosides thường có sự thay đổi hệ vi khuẩn ruột. Điều này có thể dẫn đến trẻ đi phân lỏng và tiêu chảy nhưng tác dụng phụ này chỉ là tạm thời.
Tài liệu tham khảo
- Dr. Judith Reichman (2007), Is taking antibiotics safe while breast-feeding,
- Wendy Jones PhD MRPharmS (2004), The Breastfeeding Network
-
Newton ER (2002). Mastitis and breast abscess section of Physiology of lactation and breast-feeding. In SG Gabbe et al., eds., Obstetrics: Normal and Problem Pregnancies, 4th ed., chap. 5, pp. 127–128. New York: Churchill Livingstone.
Acetaminophen (paracetamol) đã được sử dụng để hạ sốt và giảm đau từ nhẹ đến trung bình. Thuốc có sẵn ở dạng đơn chất hoặc kết hợp với các thuốc khác để điều trị các triệu chứng cảm lạnh, cúm, đau đầu và viêm xương khớp. Tên thương mại phổ biến là Tylenol. Theo Tạp chí Wall Street Journal đưa tin, Bộ trưởng Y tế Hoa Kỳ dự định thông tin về mối liên quan giữa chứng tự kỷ và việc phơi nhiễm với thuốc giảm đau và hạ sốt Tylenol trước khi sinh, như sau:
Tiêm chủng cho mẹ giúp bảo vệ cả mẹ và thai nhi khỏi một số bệnh nhiễm trùng. Lý tưởng nhất là tiêm chủng trước khi thụ thai, nhưng trong một số trường hợp, việc tiêm chủng trong thai kỳ cũng được chỉ định.
Nhiều bằng chứng cho thấy rằng, việc sử dụng kháng sinh ở bệnh nhân tiên lượng nặng bị suy thận cấp (STC) thường không đạt được mục tiêu dược lực học và tỉ lệ tử vong cao liên quan đến nhiễm trùng. Do đó, bài viết này đánh giá những thay đổi thông số về dược động học và dược lực học trên bệnh nhân nặng có STC và đề xuất những giải pháp để có thể tối ưu liều dùng kháng sinh trên những bệnh nhân này.
Trong bản dự thảo cuối cùng, Viện Y tế và Chất lượng Điều trị Quốc gia Anh (NICE) cho biết relugolix-estradiol-norethisterone là một lựa chọn để điều trị các triệu chứng lạc nội mạc tử cung ở những người phụ nữ trưởng thành đang trong độ tuổi sinh sản, nhưng không đáp ứng với phương pháp điều trị nội khoa hoặc phẫu thuật trước đó.
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), có khoảng 10% bệnh nhân tại Mỹ được báo cáo bị dị ứng penicillin. Tuy nhiên, dưới 1% bị dị ứng qua trung gian IgE (loại 1) và các nhà nghiên cứu lưu ý rằng, khoảng 80% bệnh nhân này sẽ mất độ nhạy cảm sau 10 năm. Hơn nữa, CDC khuyến nghị cần xác định những bệnh nhân không thực sự dị ứng penicillin để giảm việc sử dụng kháng sinh phổ rộng không cần thiết. Phản ứng chéo giữa penicillin và cephalosporinlà rất hiếm, nhưng nhiều bác sĩ tránh kê đơn cephalosporin cho bệnh nhân bị dị ứng penicillin, dẫn đến tăng cường sử dụng các loại kháng sinh khác như là quinolon, macrolid, clindamycin, carbapenem và vancomycin, thường gặp nhiều tác dụng phụ hơn, tăng chi phí chăm sóc sức khỏe và góp phần vào tình trạng đề kháng kháng sinh
Độc tính trên thận do thuốc là nguyên nhân phổ biến gây ra tổn thương thận cấp tính (AKI) và kháng sinh (KS) là một trong những nhóm thuốc lớn nhất liên quan đến AKI. Cơ chế gây độc tính trên thận do KS bao gồm tổn thương cầu thận, tổn thương hoặc rối loạn chức năng ống thận, tắc nghẽn ống lượn xa do trụ niệu và viêm thận kẽ cấp tính (AIN) do phản ứng quá mẫn loại IV (loại chậm). Các biểu hiện lâm sàng của độc tính trên thận do KS bao gồm hoại tử ống thận cấp (ATN), AIN và hội chứng Fanconi.



