Thuốc chống trầm cảm và thai kỳ: Tin tốt, tin xấu
Ds Thân Thị Mỹ Linh (dịch)
Khoa Dược – Bv Từ Dũ
Phụ nữ được chỉ định thuốc chống trầm cảm khi mang thai có thể giúp giảm nguy cơ sinh non và sinh mổ so với những phụ nữ có rối loạn tâm thần mà không được điều trị. Tuy nhiên, kết quả một nghiên cứu mới chỉ ra rằng các loại thuốc này có thể làm tăng nguy cơ tác dụng phụ ở trẻ sơ sinh.
Phát hiện này được công bố trực tuyến ngày 04 tháng 8 năm 2015 trên Tạp chí American Journal of Psychiatry.
Cá thể hóa điều trị
Các nghiên cứu dựa vào đặc điểm dân số với cỡ mẫu 845.345 ca sinh đơn thai tại Phần Lan từ năm 1996 đến 2010. Trong số các ca mang thai, 15.729 có sử dụng các thuốc chống trần cảm ức chế chọn lọc serotonin (SSRI), 9652 bà mẹ có các rối loạn tâm thần không và không sử dụng SSRI và nhóm chứng bao gồm 31.394 bà mẹ không có chẩn đoán tâm thần và không sử dụng thuốc.
So với các bà mẹ bị rối loạn tâm thần không được điều trị bằng các thuốc SSRI, tỷ lệ các bà mẹ được điều trị có nguy cơ sinh non giai đoạn muộn thấp hơn 16% (OR = 0,84; KTC 95% = 0,74-0,96), nguy cơ sinh cực non thấp hơn gần 50% (OR = 0,52; KTC 95% = 0,37-0,74) và nguy cơ mổ lấy thai thấp hơn 30% (OR = 0,70; KTC 95% = 0,66-0,75).
Cũng giống như các nghiên cứu trước đó đã chứng minh, nghiên cứu này chỉ ra rằng nguy cơ biến chứng ở trẻ sơ sinh tăng lên ở những bà mẹ dùng SSRI so với các bà mẹ không được điều trị, bao gồm nguy cơ chỉ số Apgar thấp (OR = 1,68; KTC 95% = 1,34-2,12) và sự gia tăng yêu cầu phải theo dõi trẻ sơ sinh ở các đơn vị chăm sóc đặc biệt (OR = 1,24; KTC 95% = 1,14-1,35).
Đối với các bà mẹ có bệnh tâm thần, cả những người được điều trị bằng thuốc SSRI và những người không điều trị có nguy cơ gặp phải các vấn đề sức khỏe sơ sinh và nguy cơ mổ lấy thai cao hơn so với các bà mẹ không có rối loạn tâm thần.
Các tác giả suy đoán rằng tỷ lệ biến chứng cao hơn ở trẻ sơ sinh được quan sát trong nhóm SSRI có thể một phần do nhận thức về những nguy cơ khi sử dụng SSRI. Sự tăng cường cảnh giác ở những người mẹ đã được điều trị bằng SSRI dẫn đến tăng xác định các đặc điểm có hại cho trẻ sơ sinh.
Stress trước khi sinh kết hợp với trầm cảm ở mẹ, ảnh hưởng đến hoạt động của trục hạ đồi - tuyến yên - tuyến thượng thận, dẫn đến tăng sản xuất corticosteroid và acid amin vận mạch, có khả năng làm giảm lưu lượng máu rốn và là nguyên nhân nền dẫn đến tình trạng thiếu oxy và sinh non. Sinh non là tình trạng nghiêm trọng, là nguyên nhân trọng yếu nhất gây tử vong ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, đồng thời có liên quan đến những di chứng thần kinh ở trẻ sơ sinh về sau.
Nghiên cứu cho thấy không có tăng nguy cơ dị tật bẩm sinh hoặc tăng huyết áp, bao gồm tiền sản giật trong nhóm sử dụng SSRIs so với một trong các nhóm so sánh.
Khó khăn khi so sánh trực tiếp mức độ nghiêm trọng trong kết cục giữa chỉ định sử dụng thuốc và không sử dụng thuốc, cần cá thể hóa điều trị. Tùy thuộc vào tiền sử sản khoa và đặc điểm sức khỏe của người mẹ, nhà lâm sàng quyết định xem có nên kê toa SSRI trong khi mang thai hay không.
Tài liệu tham khảo
http://www.medscape.com/viewarticle/849469?src=wnl_edit_tpal&uac=152623PX#vp_2
Kháng sinh chiếm gần 80% tổng số đơn thuốc được kê trong thời kỳ mang thai, và khoảng 20%–25% phụ nữ sẽ sử dụng kháng sinh trong thai kỳ. Các bệnh nhiễm trùng phổ biến nhất bao gồm nhiễm trùng đường tiết niệu (UTIs), nhiễm trùng đường sinh dục, nhiễm trùng da - mô mềm và nhiễm trùng đường hô hấp. Việc sử dụng kháng sinh trong thai kỳ luôn cần được cân nhắc giữa nguy cơ và lợi ích.
Lạc nội mạc tử cung là bệnh lý viêm mạn tính phụ thuộc estrogen, ảnh hưởng khoảng 10% phụ nữ trong độ tuổi sinh sản.
Bệnh đặc trưng bởi sự hiện diện của mô nội mạc tử cung ngoài buồng tử cung, gây đau bụng kinh, đau khi giao hợp, đau vùng chậu kéo dài và vô sinh, làm giảm đáng kể chất lượng cuộc sống.
Điều trị cần được cá thể hóa, tùy theo mức độ triệu chứng, vị trí tổn thương và nhu cầu sinh sản. Hướng dẫn hiện nay khuyến nghị kết hợp giữa điều trị nội khoa, ngoại khoa và hỗ trợ không dùng thuốc.
Phản ứng có hại của thuốc (ADR) là vấn đề thường gặp trong thực hành lâm sàng và có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ, tính mạng người bệnh nếu không được nhận biết sớm và xử trí kịp thời.
Acetaminophen (paracetamol) đã được sử dụng để hạ sốt và giảm đau từ nhẹ đến trung bình. Thuốc có sẵn ở dạng đơn chất hoặc kết hợp với các thuốc khác để điều trị các triệu chứng cảm lạnh, cúm, đau đầu và viêm xương khớp. Tên thương mại phổ biến là Tylenol. Theo Tạp chí Wall Street Journal đưa tin, Bộ trưởng Y tế Hoa Kỳ dự định thông tin về mối liên quan giữa chứng tự kỷ và việc phơi nhiễm với thuốc giảm đau và hạ sốt Tylenol trước khi sinh, như sau:
Tiêm chủng cho mẹ giúp bảo vệ cả mẹ và thai nhi khỏi một số bệnh nhiễm trùng. Lý tưởng nhất là tiêm chủng trước khi thụ thai, nhưng trong một số trường hợp, việc tiêm chủng trong thai kỳ cũng được chỉ định.
Nhiều bằng chứng cho thấy rằng, việc sử dụng kháng sinh ở bệnh nhân tiên lượng nặng bị suy thận cấp (STC) thường không đạt được mục tiêu dược lực học và tỉ lệ tử vong cao liên quan đến nhiễm trùng. Do đó, bài viết này đánh giá những thay đổi thông số về dược động học và dược lực học trên bệnh nhân nặng có STC và đề xuất những giải pháp để có thể tối ưu liều dùng kháng sinh trên những bệnh nhân này.



