Thuốc giãn cơ Atracurium và Rocuronium
THÔNG TIN THUỐC
Tháng 04 năm 2019
Nội dung: Thuốc giãn cơ Atracurium và Rocuronium
1. Atracurium besylate (Tên thương mại: Tracrium®)
Chỉ định
- Chất chẹn thần kinh cơ không khử cực có tính cạnh tranh và chọn lọc cao, được sử dụng như một chất phụ trợ trong gây mê để có thể đặt nội khí quản và làm giãn cơ xương trong phẫu thuật hoặc thông khí có kiểm soát trong nhiều thủ thuật y khoa. Sử dụng để hỗ trợ việc thở máy cho những bệnh nhân ở khoa hồi sức tích cực (ICU).
- Gây giãn cơ vân trong khi phẫu thuật và để làm dễ kiểm soát hô hấp bằng máy sau khi gây mê.
- Thích hợp để duy trì giãn cơ trong phẫu thuật mổ lấy thai vì thuốc không đi qua nhau thai ở nồng độ có ý nghĩa lâm sàng sau khi dùng thuốc ở các liều đề nghị.
Dược động học
- Hấp thu: thời gian bắt đầu tác dụng, thời gian tác dụng và tốc độ phục hồi phong bế thần kinh – cơ thay đổi tùy theo từng cá nhân và có thể bị ảnh hưởng bởi thuốc mê (enfluran, isofluran, halothan) và liều dùng.
- Phân bố: sự phân bố của thuốc vào các mô và dịch cơ thể chưa biết đầy đủ. Tỷ lệ gắn protein khoảng 82%, tỷ lệ gắn kết với protein tăng lên ở người bị bỏng. Nửa đời sinh học của thuốc khoảng 20 phút và không bị ảnh hưởng nhiều do suy chức năng gan thận.
- Chuyển hóa: chuyển hóa nhanh thành các chất không có hoạt tính.
- Thải trừ: thuốc và các chất chuyển hóa được thải trừ qua nước tiểu và phân.
Liều lượng: Điều chỉnh liều theo sự đáp ứng của từng cá nhân.
- Liều ban đầu: ở người lớn trong việc đặt nội khí quản là 0,4 – 0,5 mg/kg. Sau liều ban đầu này có thể thực hiện đặt ống nội khí quản đối với phẫu thuật không cấp cứu trong vòng 2 - 2,5 phút ở phần lớn bệnh nhân và sự phong bế thần kinh – cơ tới đa thường xảy ra trong vòng 3 – 5 phút. Khi sử dụng đồng thời với gây mê phối hợp, liều ban đầu này thường phong bế thần kinh cơ đủ trong lâm sàng khoảng 20-35 phút. Sự phục hồi tới tới 25% như lúc đầu sau khoảng 35 – 45 phút và tới 95% khoảng 1 giờ sau dùng. Nhà sản xuất khuyến cáo phải giảm liều ban đầu ở người lớn khoảng 33% (từ 0,25 – 0,35 mg/kg) nếu được chỉ định sau gây mê ổn định bằng enfluran hoặc isofluran.
- Liều duy trì – tiêm tĩnh mạch ngắt quãng: để duy trì sự phong bế thần kinh cơ trong các phẫu thuật kéo dài. Liều hiệu chỉnh theo từng cá nhân và liều thường dùng ở người lớn 0,08 – 0,1 mg/kg. Ở bệnh nhân được gây mê phối hợp, liều duy trì đầu tiên thường sau 20 – 45 phút sau dùng liều ban đầu và lặp lại mỗi 15 – 25 phút.
Tương tác thuốc
Việc dùng đồng thời một số thuốc, gồm các thuốc gây mê, thuốc kháng sinh, lithi, thuốc giãn cơ xương, muối magnesi, procainamid và quinidin có thể ảnh hưởng tới hoạt tính phong bế thần kinh cơ của atracurium besylate.
- Thuốc gây mê: enfluran, isofluran và halothan làm tăng hiệu lực và kéo dài thời gian phong bế thần kinh – cơ gây ra bởi atracurium besylate.
- Một số thuốc chống nhiễm khuẩn (aminoglycosid, polymyxin) có thể làm tăng hoặc kéo dài sự giãn cơ xương gây bởi atracurium besylate.
Đảo ngược tác dụng phong bế thần kinh – cơ
Dùng một thuốc ức chế cholinesterase như neostigmin, pyridostigmin hoặc edrophonium thường phối hợp với atropin hoặc glycopyralat để phong bế tác dụng phụ muscarinic của thuốc ức chế cholinesterase.
2. Rocuronium bromid (Tên thương mại: Esmeron®)
Chỉ định
- Thuốc hỗ trợ cho gây mê để tạo điều kiện thuận lợi cho việc đặt ống nội khí quản trong giai đoạn khởi mê thường quy và đem lại sự giãn cơ vân trong phẫu thuật.
- Tạo điều kiện đặt ống nội khí quản trong kỹ thuật khởi mê nói tiếp nhanh.
- Thuốc hỗ trợ trong thực hiện hô hấp có điều khiển ở khoa chăm sóc đặc biệt (ICU).
- Ở bệnh nhân mổ lấy thai, rocuronium bromid có thể được sử dụng như một phần của kỹ thuật khởi mê tiếp nối nhanh với điều kiện không có khó khăn nào về việc đặt ống nội khí quản được dự đoán và sử dụng một liều đầy đủ thuốc mê hoặc suxamethonium trong quá trình đặt ống nội khí quản.
Tác dụng dược lý
- Rocuronium bromid có hoạt tính chẹn thần kinh – cơ không khử cực, gây giãn cơ, có tác dụng nhanh và thời gian tác dụng trung bình. Sau khi tiêm, tác dụng giãn cơ xuất hiện trong vòng 1 – 2 phút, sao đó kéo dài 30 – 50 phút.
- Phân bố: 30% liên kết với protein huyết thanh. Nửa đời thải trừ là 1,4 - 1,6 giờ.
- Chuyển hóa: chất chuyển hóa của rocuronium bromid có hoạt tính phong bế thần kinh cơ yếu.
- Thải trừ: chủ yếu qua nước tiểu và một phần qua mật.
Liều lượng: Điều chỉnh liều theo sự đáp ứng của từng cá nhân.
- Liều khởi đầu để đặt nội khí quản ở người lớn là 0,6 mg/kg tiêm tĩnh mạch nhanh. Sau khi tiêm, giãn cơ cần thiết để đặt nội khí quản trong vòng 1 phút, đa số bệnh nhân đặt xong nội khí quản trong vòng 2 phút, thời gian giãn cơ tối đa thường có trong vòng 3 phút. Khi dùng đồng thời với gây mê phối hợp nhiều thuốc, liều ban đầu thường làm giãn cơ đủ cho lâm sàng khoảng 31 phút. Nếu dùng liều cao 0,9 – 1,2 mg/kg thời gian giãn cơ lâm sàng tương ứng là 58 – 67 phút.
- Liều duy trì: khi dùng đồng thời với gây mê phối hợp, ở người lớn liều duy trì là 0,1 – 0,15 mg/kg hoặc 0,2 mg/kg, làm giãn cơ đủ cho lâm sàng khoảng 12 -17 – 24 phút tương ứng với các liều trên.
- Liều 0,6 mg/kg đã cho thấy an toàn để sử dụng trong mổ lấy thai. Thuốc không ảnh hưởng đến Apgar, trương lực cơ của thai hoặc sự thích nghi của tim và hô hấp. Phân tích mẫu máu ở dây rốn cho thấy rõ ràng là chỉ một lượng giới hạn rocuronium bromid truyền qua nhau thai, không đưa đến các tác dụng bất lợi trên lâm sàng ở trẻ sơ sinh.
+ Liều 1,0 mg/kg đã được nghiên cứu trong khởi mê tiếp nối nhanh nhưng chưa được nghiên cứu ở bệnh nhân mổ lấy thai.
+ Sự hóa giải phong bế thần kinh cơ gây ra bởi thuốc phong bế thần kinh cơ có thể bị ức chế hoặc không thỏa đáng ở bệnh nhân đang dùng muối magnesi vì muối magnesi làm tăng sự phong bế thần kinh cơ. Do đó phải giảm liều rocuronium bromid ở những bệnh nhân này.
Tương tác thuốc
- Không dùng đồng thời với suxamethonium, chỉ dùng khi dấu hiệu của suxamethonium đã hết.
- Các thuốc làm tăng tác dụng của rocuronium: thuốc gây mê bay hơi (isofluran, enfluran, desfluran hoặc halothan), thuốc gây tê dùng kết hợp, kháng sinh (aminoglycosid, polymycin, tetracyclin…), chất đối kháng calci, thuốc tiêm chứa magnesi.
- Các thuốc làm giảm tác dụng của rocuronium: thuốc ức chế cholinesterase, thuốc động kinh (carbamazepine, phenytoin…) khi dùng kéo dài.
Đảo ngược tác dụng phong bế thần kinh – cơ
Trong trường hợp quá liều và phong bế thần kinh cơ kéo dài, bệnh nhân cần được tiếp tục thông khí hỗ trợ và an thần. Có 2 sự lựa chọn cho sự giải phong bế cơ thần kinh
- Ở người lớn, sugammadex có thể được sử dụng để hóa giải phong bế mạnh (sâu rộng) và phong bế sâu. Liều sugammadex được dùng tùy theo mức độ phong bế thần kinh cơ.
- Khi sự phục hồi tự phát bắt đầu, có thể sử dụng một thuốc ức chế acetylcholinesterase (neostigmin, edrophonium, pyridostigmin) hoặc sugammadex và cần được sử dụng với liều phù hợp.
Tài liệu tham khảo
- Thông tin kê toa sản phẩm.
- Mims 2018.
- Dược thư quốc gia Việt Nam 2015.
Acetaminophen (paracetamol) đã được sử dụng để hạ sốt và giảm đau từ nhẹ đến trung bình. Thuốc có sẵn ở dạng đơn chất hoặc kết hợp với các thuốc khác để điều trị các triệu chứng cảm lạnh, cúm, đau đầu và viêm xương khớp. Tên thương mại phổ biến là Tylenol. Theo Tạp chí Wall Street Journal đưa tin, Bộ trưởng Y tế Hoa Kỳ dự định thông tin về mối liên quan giữa chứng tự kỷ và việc phơi nhiễm với thuốc giảm đau và hạ sốt Tylenol trước khi sinh, như sau:
Tiêm chủng cho mẹ giúp bảo vệ cả mẹ và thai nhi khỏi một số bệnh nhiễm trùng. Lý tưởng nhất là tiêm chủng trước khi thụ thai, nhưng trong một số trường hợp, việc tiêm chủng trong thai kỳ cũng được chỉ định.
Nhiều bằng chứng cho thấy rằng, việc sử dụng kháng sinh ở bệnh nhân tiên lượng nặng bị suy thận cấp (STC) thường không đạt được mục tiêu dược lực học và tỉ lệ tử vong cao liên quan đến nhiễm trùng. Do đó, bài viết này đánh giá những thay đổi thông số về dược động học và dược lực học trên bệnh nhân nặng có STC và đề xuất những giải pháp để có thể tối ưu liều dùng kháng sinh trên những bệnh nhân này.
Trong bản dự thảo cuối cùng, Viện Y tế và Chất lượng Điều trị Quốc gia Anh (NICE) cho biết relugolix-estradiol-norethisterone là một lựa chọn để điều trị các triệu chứng lạc nội mạc tử cung ở những người phụ nữ trưởng thành đang trong độ tuổi sinh sản, nhưng không đáp ứng với phương pháp điều trị nội khoa hoặc phẫu thuật trước đó.
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), có khoảng 10% bệnh nhân tại Mỹ được báo cáo bị dị ứng penicillin. Tuy nhiên, dưới 1% bị dị ứng qua trung gian IgE (loại 1) và các nhà nghiên cứu lưu ý rằng, khoảng 80% bệnh nhân này sẽ mất độ nhạy cảm sau 10 năm. Hơn nữa, CDC khuyến nghị cần xác định những bệnh nhân không thực sự dị ứng penicillin để giảm việc sử dụng kháng sinh phổ rộng không cần thiết. Phản ứng chéo giữa penicillin và cephalosporinlà rất hiếm, nhưng nhiều bác sĩ tránh kê đơn cephalosporin cho bệnh nhân bị dị ứng penicillin, dẫn đến tăng cường sử dụng các loại kháng sinh khác như là quinolon, macrolid, clindamycin, carbapenem và vancomycin, thường gặp nhiều tác dụng phụ hơn, tăng chi phí chăm sóc sức khỏe và góp phần vào tình trạng đề kháng kháng sinh
Độc tính trên thận do thuốc là nguyên nhân phổ biến gây ra tổn thương thận cấp tính (AKI) và kháng sinh (KS) là một trong những nhóm thuốc lớn nhất liên quan đến AKI. Cơ chế gây độc tính trên thận do KS bao gồm tổn thương cầu thận, tổn thương hoặc rối loạn chức năng ống thận, tắc nghẽn ống lượn xa do trụ niệu và viêm thận kẽ cấp tính (AIN) do phản ứng quá mẫn loại IV (loại chậm). Các biểu hiện lâm sàng của độc tính trên thận do KS bao gồm hoại tử ống thận cấp (ATN), AIN và hội chứng Fanconi.