Thuốc kháng viêm không steroid và hiếm muộn
Ds Thân Thị Mỹ Linh – Khoa Dược
(lược dịch)
Thuốc kháng viêm không steroid (NSAIDs) là nhóm thuốc thường được kê đơn nhất trên toàn thế giới và thường được sử dụng cho phụ phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ. Các bất lợi về tiêu hóa, tim mạch và các tác dụng phụ trên thận của NSAIDs cũng được báo cáo. Tương tự như vậy, việc sử dụng NSAIDs trong giai đàon cuối thai kỳ co thể gây chuyển dạ kéo dài, đóng sớm ống động mạch của bào thai và gia tăng nguy cơ băng huyết sau sinh. Tuy nhiên, việc sử dụng NSAID có thể ảnh hưởng xấu đến sự rụng trứng ít được chú ý, mặc dù tác dụng này đã được mô tả trong y văn hơn 2 thập kỷ trước.
NSAID là chất ức chế prostaglandin, ngăn chặn sản xuất enzym cyclooxygenase (COX)-1 và COX-2. Hệ thống enzym COX xúc tác sản xuất prostaglandin sinh học. Isoenzyme COX-2 hoạt động ở buồng trứng trong giai đoạn phát triển của nang trứng. Sự ức chế COX-2 của NSAIDs và các chất ức chế COX-2 (ví dụ celecoxib) được cho là có khả năng gây ra hội chứng nang không vỡ (luteinized unruptured follicle symdrom - LUFS), khi có các dấu hiệu lâm sàng của sự rụng trứng xuất hiện (tăng nhiệt độ cơ thể và nồng độ progesterone) không xảy ra hiện tượng vỡ nang trứng và phóng noãn.
Chất ức chế COX-2 có thể có tác dụng phụ nhiều hơn nữa về khả năng sinh sản, không chỉ ở sự rụng trứng mà còn trong việc thụ tinh, cấy và nuôi dưỡng phôi. Các isoenzym của COX quan trọng trong việc tạo ra prostaglandin cần thiết cho sự hình thành các enzym phân giải protein gây vỡ các nang trứng, prostaglandin cũng rất quan trọng cho sự hình thành mạch máu của nhau thai.
Đã có một số báo cáo hàng loạt ca có sự trì hoãn rụng trứng và/hoặc LUFS gắn với việc sử dụng NSAID trong các y văn.
Một thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát với cỡ mẫu nhỏ đã chứng minh rằng NSAIDs và các chất ức chế COX-2 kéo dài giai đoạn vỡ nang. Các nghiên cứu cũng có kết luận chung rằng không có sự khác biệt có ý nghĩa về mặt sinh học,ví dụ như độ dài chu kỳ kinh nguyệt hoặc về nội tiết theo chu kỳ ở phụ nữ có sử dụng NSAID và chất ức chế COX-2 so với giả dược. Tuy nhiên, tỷ lệ nang chưa vỡ thường cao hơn đáng kể ở những phụ nữ có sử dụng thuốc và tác dụng bất lợi này có thể hồi phục sau khi ngưng thuốc.
Ngược lại, ít nhất là hai thử nghiệm nhỏ ngẫu nhiên và một nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu bảo đảm rằng kéo dài vỡ nang trứng không gây ra vô sinh.
Các dữ liệu gần đây nhất được trình bày tại Đại hội thường niên về phòng chống bệnh thấp khớp châu Âu (European League Against Rheumatism - EULAR) năm 2015 của Salman và cộng sự. Một thử nghiệm ngẫu nhiên 39 phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ bị đau lưng nhẹ được phân vào một trong bốn nhóm như sau:
- Diclofenac, 100 mg 1 lần/ngày.
- Naproxen, 500 mg 2 lần/ngày.
- Etoricoxib (chất ức chế COX-2) 90 mg 1 lần/ngày.
- Nhóm chứng chỉ dùng giả dược.
Những người tham gia bắt đầu điều trị vào ngày thứ 10 của chu kỳ kinh nguyệt để đảm bảo nang trứng phát triển hoàn chỉnh để chuẩn bị phóng noãn. Thuốc nghiên cứu được sử dụng trong 10 ngày liên tục. Lúc bắt đầu, nồng độ progesterone được xác định và mỗi người phụ nữ được siêu âm để đánh giá kích thước của nang trội của buồng trứng bị ảnh hưởng. Sau 10 ngày điều trị, các đánh giá này được lặp lại.
Trong số phụ nữ có sử dụng NSAIDs, chỉ có 6,3% rụng trứng trong nhóm diclofenac, 25% rụng trứng trong nhóm naproxen, và 27,3% rụng trứng trong nhóm etoricoxib so với 100% của nhóm chứng. Cả ba nhóm sử dụng thuốc đều có sự suy giảm nồng độ progesterone và khoảng một phần ba phụ nữ phát triển u nang cơ năng do nang chưa vỡ. Sự rụng trứng trở lại bình thường sau khi ngưng NSAID hoặc chất ức chế COX-2.
Các nhà nghiên cứu kết luận rằng cần thận trọng do tác dụng phụ của các loại thuốc trên khả năng sinh sản ở phụ nữ và xem xét nên tránh sử dụng NSAID và các chất ức chế COX-2 ở những phụ nữ dự định có thai.
Kết luận
Chưa có các thử nghiệm có quy mô lớn và có kiểm soát chứng minh mối liên hệ nhân quả giữa việc sử dụng các NSAID hoặc chất ức chế COX-2 và vô sinh ở nữ giới. Tuy nhiên, các nghiên cứu có kiểm soát với quy mô nhỏ và các báo cáo hàng loạt ca đã chứng minh mối liên hệ giữa việc sử dụng các loại thuốc này với LUFS, trì hoãn sự rụng trứng hoặc không rụng trứng. Vì các NSAID và chất ức chế COX-2 được chỉ định khá nhiều và sử dụng không kê đơn cho phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ, bác sĩ cần phải biết được những tác động bất lợi này, đặc biệt là ở phụ nữ bị vô sinh.
Tài liệu tham khảo
Sốt là triệu chứng phổ biến trong thực hành lâm sàng hàng ngày và một số lượng lớn người bệnh nhập viện do sốt. Nhiều người bệnh được dùng thuốc kháng sinh, thuốc kháng vi-rút, thuốc kháng nấm hoặc thuốc kháng ký sinh trùng, nếu coi nhiễm trùng là nguyên nhân chính. Tuy nhiên, thuốc được dùng để điều trị có thể là nguyên nhân tiềm ẩn gây sốt trong bối cảnh như vậy
Năm 2024, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) đã ban hành hướng dẫn về việc sử dụng doxycyclin dự phòng sau phơi nhiễm (doxy-PEP) để phòng ngừa bệnh nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục (STI). Dự phòng sau phơi nhiễm là một chiến lược hoá trị dự phòng, trong đó thuốc được dùng sau khi có khả năng phơi nhiễm để ngăn ngừa nhiễm trùng. Đây là một chiến lược phòng ngừa phổ biến và hiệu quả đối với HIV và các bệnh nhiễm trùng khác, chẳng hạn như bệnh dại và uốn ván. Doxycyclin là một kháng sinh nhóm tetracyclin phổ rộng dung nạp tốt và được khuyến cáo điều trị bệnh chlamydia và là phương pháp thay thế trong điều trị giang mai ở những bệnh nhân không có thai.
Việc bẻ, nghiền viên nén không bao, bao phim, bao đường hoặc mở viên nang giải phóng dược chất tức thì không làm thay đổi sinh khả dụng của thuốc và giúp bệnh nhân tuân thủ điều trị tốt hơn
Trẻ em không phải người lớn thu nhỏ. Các yếu tố dược động học ở trẻ sơ sinh thay đổi liên tục do sự phát triển nhanh về sinh lý. Tiêm tĩnh mạch thường được sử dụng trong điều trị cho trẻ sơ sinh, đặc biệt khi trẻ đang điều trị tại đơn vị chăm sóc tích cực. Khi tiêm tĩnh mạch, hiệu quả gần như tức thời. Hầu hết các loại thuốc tiêm tĩnh mạch cho trẻ sơ sinh có những yêu cầu riêng về độ pha loãng và/hoặc tốc độ truyền.
Trong giai đoạn năm 2018-2021, Mạng lưới An toàn Chăm sóc Sức khỏe Quốc gia (NHSN) đã báo cáo rằng 0,4% (n = 1.951) các ca nhiễm trùng mắc phải tại bệnh viện (HAI) ở Hoa Kỳ nguyên nhân do Acinetobacter spp. gây ra. Trong số này có 28-45% không nhạy cảm với kháng sinh carbapenem (tức là trung gian hoặc đề kháng).
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCT), BLING III cung cấp bằng chứng việc sử dụng truyền liên tục (CI) so với truyền ngắt quãng piperacillin/tazobactam và meropenem trên bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Điều này được củng cố bởi một đánh giá tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp (SRMA) của 18 RCT về CI hoặc truyền kéo dài (EI) (thời gian từ 3–4 giờ) các kháng sinh beta-lactam. Thách thức hiện nay là chuyển đổi CI như một tiêu chuẩn chăm sóc cho bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Các cân nhắc chính bao gồm các vấn đề sau: