Thuốc uống dạng kết hợp đầu tiên được khuyến nghị sử dụng lâu dài để điều trị lạc nội mạc tử cung
Lược dịch
Viên uống hàng ngày sử dụng lâu dài để điều trị lạc nội mạc tử cung đã được khuyến nghị sử dụng thường quy tại Anh.
Trong bản dự thảo cuối cùng, Viện Y tế và Chất lượng Điều trị Quốc gia Anh (NICE) cho biết relugolix-estradiol-norethisterone là một lựa chọn để điều trị các triệu chứng lạc nội mạc tử cung ở những người phụ nữ trưởng thành đang trong độ tuổi sinh sản, nhưng không đáp ứng với phương pháp điều trị nội khoa hoặc phẫu thuật trước đó.
Relugolix CT hay còn được gọi là liệu pháp kết hợp relugolix, là loại thuốc đầu tiên được Tổ chức Dịch vụ y tế quốc gia của Anh (NHS) phê duyệt sử dụng lâu dài để điều trị lạc nội mạc tử cung. Ước tính, khoảng 1.000 phụ nữ mỗi năm tại Anh sẽ được hưởng lợi từ phương pháp điều trị mới này.
1. Một bước tiến mới trong việc điều trị
Theo bà Helen Knight – Giám đốc đánh giá thuốc của NICE đã nhấn mạnh: “Việc chuyển đổi từ tiêm tại cơ sở y tế sang uống thuốc tại nhà giúp bệnh nhân dễ dàng bắt đầu hoặc dừng lại việc điều trị bất cứ khi nào bệnh nhân muốn. Đây là bước tiến giúp bệnh nhân chủ động hơn trong quá trình điều trị, đặc biệt đối với những người có kế hoạch sinh con và để kiểm soát các tác dụng phụ”.
Hội lạc nội mạc tử cung ở Anh, hoan nghênh sự phê duyệt này, nhưng cảnh báo rằng relugolix CT có thể gây ra “mãn kinh y khoa” kết hợp với liệu pháp hormone thay thế. Tổ chức này cũng lưu ý rằng phương pháp này có thể chỉ phù hợp với tỷ lệ nhỏ trong số 1,5 triệu người bị lạc nội mạc tử cung.
NICE đã khuyến cáo dùng relugolix-estradiol-norethisterone để điều trị các triệu chứng từ trung bình đến nặng của u xơ tử cung.
2. Bằng chứng lâm sàng và hiệu quả
Các phương pháp tiêu chuẩn điều trị bệnh lạc nội mạc tử cung bao gồm giảm đau, liệu pháp hormone, thuốc chủ vận hormone giải phóng gonadotropin (GnRH) và phẫu thuật.
Cơ quan quản lý nhấn mạnh rằng, không giống như các phương pháp điều trị bằng thuốc chủ vận GnRH tiêm hiện tại, ban đầu có thể gây bùng phát các triệu chứng, loại thuốc viên mới này có tác dụng nhanh hơn, kết hợp tất cả các hormone cần thiết trong một viên thuốc và đưa mức hormone trở lại bình thường nhanh hơn khi ngừng sử dụng. Việc điều trị có thể thực hiện tại nhà, giúp bệnh nhân không cần phải đến phòng khám. Các thử nghiệm lâm sàng đã chứng minh rằng relugolix CT làm giảm đau so với giả dược.
Các thử nghiệm lâm sàng mang tên SPIRIT 1 và SPIRIT 2 giai đoạn 3, ngẫu nhiên, mù đôi, có đối chứng đã đánh giá hiệu quả của relugolix CT trong việc điều trị cơn đau liên quan đến lạc nội mạc tử cung từ trung bình đến nặng ở phụ nữ tiền mãn kinh trong độ tuổi từ 18 đến 50 tuổi.
Hai kết quả chính được đánh giá có đáp ứng điều trị là tỷ lệ bệnh nhân bị đau bụng kinh hoặc đau vùng chậu không liên quan kinh nguyệt.
- Đối với những người bị đau bụng kinh:
- Sau 24 tuần, 75% số người dùng relugolix CT đã cho thấy đáp ứng so với 27% và 30% nhóm sử dụng giả dược tương ứng với SPIRIT 1 và 2
- Đối với những người bị đau vùng chậu không liên quan kinh nguyệt:
- Sau 24 tuần, tỷ lệ đáp ứng ở nhóm dùng relugolix CT là 59% so với 40% và 43% nhóm sử dụng giả dược tương ứng với SPIRIT 1 và 2
3. Cải thiện chẩn đoán và điều trị
Bên cạnh đó, báo cáo từ Ủy ban Phụ nữ và Bình đẳng Anh cũng thúc giục NHS khẩn trương thực hiện một chương trình đào tạo để cải thiện việc điều trị và chẩn đoán các tình trạng sức khỏe sinh sản. Báo cáo cũng nhấn mạnh rằng , việc cải thiện chẩn đoán sớm, bao gồm các cuộc hẹn tái khám, nên là một chỉ số hiệu suất chính cho Chiến lược Sức khoẻ Phụ nữ cho nước Anh.
NICE nhấn mạnh rằng bệnh lạc nội mạc tử cung không có cách chữa khỏi và nhu cầu về các phương pháp điều trị lâu dài, không xâm lấn để kiểm soát các triệu chứng của bệnh vẫn chưa được đáp ứng.
Mặc dù relugolix CT chưa được so sánh trực tiếp trong một thử nghiệm lâm sàng với phương pháp điều trị thông thường, nhưng các so sánh gián tiếp cho thấy rằng, nó có khả năng làm giảm đau vùng chậu gần như hiệu quả bằng các chất chủ vận GnRH. Tuy nhiên, vẫn chưa rõ hiệu quả của relugolix CT như thế nào so với phẫu thuật.
Knight cho biết: “Phương pháp điều trị mới này đánh dấu một bước thay đổi tiềm năng trong cách chúng ta điều trị bệnh lạc nội mạc tử cung, trao lại quyền kiểm soát cho người bệnh đồng thời đảm bảo giá trị cho người nộp thuế”. “Sự tiện lợi này không chỉ mang lại lợi ích cho người bệnh mà còn giảm áp lực lên các dịch vụ của NHS”.
Tài liệu tham khảo
Dr Rob Hicks.First Combination Pill for Long-Term Endometriosis Approved. March 13, 2025.https://www.medscape.com/viewarticle/first-combination-pill-long-term-endometriosis-approved-2025a1000664.(30/6/2025)
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), có khoảng 10% bệnh nhân tại Mỹ được báo cáo bị dị ứng penicillin. Tuy nhiên, dưới 1% bị dị ứng qua trung gian IgE (loại 1) và các nhà nghiên cứu lưu ý rằng, khoảng 80% bệnh nhân này sẽ mất độ nhạy cảm sau 10 năm. Hơn nữa, CDC khuyến nghị cần xác định những bệnh nhân không thực sự dị ứng penicillin để giảm việc sử dụng kháng sinh phổ rộng không cần thiết. Phản ứng chéo giữa penicillin và cephalosporinlà rất hiếm, nhưng nhiều bác sĩ tránh kê đơn cephalosporin cho bệnh nhân bị dị ứng penicillin, dẫn đến tăng cường sử dụng các loại kháng sinh khác như là quinolon, macrolid, clindamycin, carbapenem và vancomycin, thường gặp nhiều tác dụng phụ hơn, tăng chi phí chăm sóc sức khỏe và góp phần vào tình trạng đề kháng kháng sinh
Độc tính trên thận do thuốc là nguyên nhân phổ biến gây ra tổn thương thận cấp tính (AKI) và kháng sinh (KS) là một trong những nhóm thuốc lớn nhất liên quan đến AKI. Cơ chế gây độc tính trên thận do KS bao gồm tổn thương cầu thận, tổn thương hoặc rối loạn chức năng ống thận, tắc nghẽn ống lượn xa do trụ niệu và viêm thận kẽ cấp tính (AIN) do phản ứng quá mẫn loại IV (loại chậm). Các biểu hiện lâm sàng của độc tính trên thận do KS bao gồm hoại tử ống thận cấp (ATN), AIN và hội chứng Fanconi.
Trong 6 tháng đầu năm 2025, Bệnh viện Từ Dũ ghi nhận 204 báo cáo ADR, tăng 1,3 lần so với cùng kỳ năm 2024 (160 báo cáo).
Việc sử dụng hệ thống phóng thích Levonorgestrel trong tử cung (LNG-IUS: Levonorgestrel-releasing intrauterine system) có liên quan đến tăng nguy cơ ung thư vú. Một nghiên cứu ở Đan Mạch ghi nhận 14 trường hợp ung thư vú trên 10.000 phụ nữ tránh thai bằng LNG-IUS so với phụ nữ tránh thai không dùng nội tiết.
Theo kết quả của một nghiên cứu trên JAMA Network Open, tiêm vắc-xin cúm không liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc các kết quả bất lợi trong thời kỳ chu sinh đối với những người mang thai liên tiếp. Các tác giả nghiên cứu cho biết những phát hiện này ủng hộ các khuyến nghị hiện tại cho những người mang thai hoặc những người có thể mang thai trong mùa cúm.
Staphylococcus aureus, một loại vi khuẩn gram dương, là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do nhiễm trùng huyết trên toàn thế giới, với tỷ lệ tử vong từ 15% đến 30% và ước tính có 300.000 ca tử vong mỗi năm.