Tiêm ngừa vắc xin ngừa cúm trong thai kỳ
DS. Huỳnh Thị Hồng Gấm (Lược dịch)
K. Dược
TÓM TẮT
Tiêm phòng cúm là một phần thiết yếu trong chăm sóc trước khi mang thai, trước khi sinh và sau sinh bởi vì nhiễm cúm có thể dẫn đến các bệnh nghiêm trọng, bao gồm nguy cơ cao bị viêm phổi khi bị nhiễm cúm trước khi sinh hoặc sau sinh. Ngoài việc phải nhập viện, thai phụ bị nhiễm cúm bị tăng nguy cơ phải nhập khoa Hồi sức tích cực và các kết cục không mong muốn khi sinh cũng như trên bé sơ sinh. Ủy ban cố vấn của Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa bệnh tật về tiêm ngừa và Hiệp hội sản phụ khoa Hoa Kỳ khuyến cáo rằng tất cả những người trưởng thành phải được chủng ngừa cúm hàng năm và tất cả phụ nữ đang mang thai hoặc sẽ mang thai trong mùa cúm được chủng ngừa cúm bất hoạt ngay sau khi nguồn vắc xin sẵn có. Ở Hoa Kỳ, mùa cúm thường diễn ra từ tháng 10 đến tháng 5. Lý tưởng nhất, nên tiêm ngừa vắc xin cúm trước thời điểm cuối tháng 10, nhưng tiêm vắc xin trong suốt mùa cúm vẫn được khuyến khích nhằm đảm bảo cho việc bảo vệ trong suốt thời kỳ cúm lưu hành. Bất kỳ loại vắc xin cúm bất hoạt nào được cấp phép, được khuyến cáo, độ tuổi phù hợp, có thể tiêm an toàn cho thai phụ trong tam cá nguyệt bất kỳ. Do đó, quan trọng là việc các bác sĩ sản- phụ khoa và các nhà chăm sóc sản khoa khuyến cáo và ủng hộ tiêm vắc xin cúm. Bác sĩ sản- phụ khoa được khuyến khích dự trữ và thực hiện tiêm ngừa cúm cho thai phụ tại phòng mạch của họ và nên tiêm ngừa cúm cho bản thân bác sĩ mỗi mùa cúm. Nếu bác sĩ sản – phụ khoa hoặc các nhà chăm sóc sản khoa không thể cung cấp việc tiêm ngừa vắc xin cúm trong thực tế cho thai phụ, nên chuyển người bệnh đến các trung tâm chăm sóc sức khỏe khác, nhà thuốc hoặc các trung tâm tiêm ngừa cộng đồng. Quan điểm đồng thuận lần này bao gồm nhiều dữ liệu cập nhật về tính an toàn và hiệu quả của việc tiêm ngừa vắc xin cúm trong thời kỳ mang thai và các khuyến cáo về điều trị và thuốc dự phòng sau phơi nhiễm.
KHUYẾN CÁO
Hiệp hội sản phụ khoa Hoa Kỳ (ACOG) đưa ra các khuyến cáo như sau:
- Ủy ban cố vấn của Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa bệnh tật về tiêm ngừa và Hiệp hội sản phụ khoa Hoa Kỳ khuyến cáo rằng tất cả những người trưởng thành phải được chủng ngừa cúm hàng năm và tất cả phụ nữ đang mang thai hoặc sẽ mang thai trong mùa cúm được chủng ngừa cúm bất hoạt ngay sau khi nguồn vắc xin sẵn có. Bất kỳ loại vắc xin cúm bất hoạt nào được cấp phép, được khuyến cáo, độ tuổi phù hợp, có thể tiêm an toàn cho thai phụ trong tam cá nguyệt bất kỳ.
- Việc chủng ngừa cúm cho mẹ là một thành phần thiết yếu trong chăm sóc trước sinh cho thai phụ và trẻ sơ sinh của họ. Bác sĩ sản -phụ khoa và các nhà chăm sóc sức khỏe nên tư vấn cho thai phụ về tính an toàn và lợi ích của việc tiêm ngừa cúm cho bản thân họ và thai nhi và ủng hộ miễn dịch thụ động ở trẻ sơ sinh từ việc chủng ngừa mẹ
- Bác sĩ sản- phụ khoa được khuyến khích dự trữ và thực hiện tiêm ngừa cúm cho thai phụ tại phòng mạch của họ và nên tiêm ngừa cúm cho bản thân bác sĩ mỗi mùa cúm
- Nếu bác sĩ sản – phụ khoa hoặc các nhà chăm sóc sản khoa không thể cung cấp việc tiêm ngừa vắc xin cúm trong thực tế cho thai phụ, nên chuyển người bệnh đến các trung tâm chăm sóc sức khỏe khác, nhà thuốc hoặc các trung tâm tiêm ngừa cộng đồng
- Bác sĩ sản- phụ khoa nên mạnh mẽ khuyến khích nhân viên phòng khám tiêm ngừa vắc xin cúm mỗi mùa cúm
- Các cá nhân có tiền sử dị ứng với trứng, những người mà đã từng chỉ bị nổi ban sau khi ăn trứng có thể tiêm ngừa một loại vắc xin cúm được cấp phép và khuyến cáo, phù hợp với tuổi và tình trạng sức khỏe của họ
- Trong trường hợp triệu chứng dị ứng nghiêm trọng hơn phát ban, nên tiêm vắc xin ở cơ sở y tế nội trú hoặc ngoại trú (bao gồm phòng khám, trung tâm y tế, phòng mạch bác sĩ, nhưng không nhất thiết phải nhập viện)
- Người bệnh có biểu hiện giống cúm nên được điều trị bằng thuốc kháng virus một cách hợp lý bất kể tình trạng tiêm chủng. Các nhà chăm sóc sức khỏe không nên phụ thuộc vào các kết quả thử nghiệm (test) để bắt đầu điều trị và nên điều trị người bệnh một cách hợp lý dựa trên đánh giá lâm sàng
- Vì tiềm năng mắc bệnh cao, Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa bệnh tật và Hiệp hội sản phụ khoa Hoa Kỳ khuyến cáo rằng thuốc kháng virus sau phơi nhiễm (75mg Oseltamivir 01 lần/ ngày trong 10 ngày) được cân nhắc sử dụng cho thai phụ và phụ nữ đến 2 tuần sau sinh (kể cả sẩy thai) cho những người có tiếp xúc gần với những người có khả năng bị nhiễm cúm. Nếu Oseltamivir không sẵn có, có thể thay thế bằng Zanamiver, 2 liều hít 1 lần/ ngày trong 10 ngày.
ĐIỀU TRỊ VÀ DỰ PHÒNG BẰNG THUỐC CHO THAI PHỤ SAU KHI BỊ PHƠI NHIỄM
Thai phụ có nguy cơ cao gặp các biến chứng nghiêm trọng của nhiễm cúm như phải nằm khoa Hồi sức tích cực, chuyển dạ sinh non và tử vong mẹ. Người bệnh có biểu hiện giống cúm nên được điều trị bằng thuốc kháng virus một cách hợp lý bất kể tình trạng tiêm ngừa. Điều trị bằng Oseltamivir (75 mg 2 lần/ ngày trong 5 ngày) được lựa chọn; tuy nhiên, nếu Oseltamivir không sẵn có, có thể thay thế bằng Zanamivir (2 liều hít 10mg, 2 lần/ ngày trong 5 ngày). Các nhà chăm sóc sức khỏe không nên phụ thuốc vào các kết quả thử nghiệm (test) để bắt đầu điều trị và nên điều trị người bệnh một cách hợp lý dựa trên đánh giá lâm sàng
Vì tiềm năng mắc bệnh cao, Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa bệnh tật và Hiệp hội sản phụ khoa Hoa Kỳ khuyến cáo rằng thuốc kháng virus sau phơi nhiễm (75mg Oseltamivir 01 lần/ ngày trong 10 ngày) được cân nhắc sử dụng cho thai phụ và phụ nữ đến 2 tuần sau sinh (kể cả sẩy thai) cho những người có tiếp xúc gần với những người có khả năng bị nhiễm cúm. Nếu Oseltamivir không sẵn có, có thể thay thế bằng Zanamiver, 2 liều hít 1 lần/ ngày trong 10 ngày. Tất cả phụ nữ đang mang thai hoặc trong 2 tuần đầu sau sinh nên được tư vấn gọi điện thoại yêu cầu đánh giá ngay khi có các dấu hiệu và triệu chứng sớm của nhiễm cúm (ví dụ, như sốt cao hơn 100 ° F kèm với hơi thở ngắn, ngất hoặc đau ngực tiến triển).
KẾT LUẬN
Phụ nữ mang thai đặc biệt dễ bị nhiễm cúm và các hậu quả của nó; do đó, tiêm ngừa cúm là một phần không thể thiếu trong chăm sóc trước khi mang thai, trước sinh và sau sinh. Các bác sĩ sản- phụ khoa, các nhà chăm sóc sức khỏe khác, các cơ sở y tế và trung tâm chăm sóc sức khỏe cộng đồng nỗ lực để cải thiện tỷ lệ tiêm ngừa vắc xin cúm ở thai phụ là cấp bách. Như thế sẽ có lợi cho thai phụ và trẻ sơ sinh của họ.
Nguồn:
Influenza Vaccination During Pregnancy. ACOG Committee opinion. Number 732, april 2018.
Probiotics được định nghĩa là “các vi sinh vật sống, khi được đưa vào cơ thể với số lượng đủ, sẽ mang lại lợi ích cho sức khỏe của vật chủ”. Các chủng vi khuẩn tạo axit lactic là quan trọng nhất trong thực phẩm và dinh dưỡng, chủng thuộc chi Lactobacillus và Bifidobacterium là những probiotic được sử dụng phổ biến nhất, ngoài ra còn kể đến các chi Bacillus, Streptococcus, Enterococcus, Saccharomyces và Escherichia coli
- Bệnh viện đã thực hiện 378 báo cáo ADR, giảm 7,9% so với năm 2023 (408 báo cáo), tăng 14,2% so với năm 2022 (331 báo cáo).
- Số lượng báo cáo ADR ngoại trú là 18 báo cáo, giảm 3,6 lần so với năm 2023 (66 báo cáo).
- Bệnh viện Từ Dũ được Trung tâm DI&ADR quốc gia xếp hạng 8/991 cơ sở khám chữa bệnh có hoạt động theo dõi ADR hiệu quả trong báo cáo tổng kết ADR quốc gia vào tháng 9/2024.
Mirvetuximab soravtansine-gynx đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt điều trị cho bệnh nhân trưởng thành mắc ung thư biểu mô buồng trứng, ống dẫn trứng, hoặc ung thư phúc mạc nguyên phát dương tính với thụ thể folat alpha (FRα), kháng hóa trị, là những bệnh nhân đã trải qua 3 liệu trình điều trị trước đó. Theo các chuyên gia, bệnh nhân mắc các loại ung thư này thường được phát hiện khi bệnh đã ở giai đoạn muộn, trải qua phẫu thuật và sau đó được điều trị bằng phác đồ hóa trị có platinum nhưng có thể trở nên kháng thuốc.
Kháng sinh (KS) phổ rộng được xem như “thần dược” để điều trị các bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng hoặc đe dọa tính mạng khi tác nhân gây bệnh chưa được xác định. Mục đích sử dụng KS phổ rộng nhằm bao phủ nhiều loại tác nhân vi khuẩn gram dương và gram âm, bao gồm cả các tác nhân kháng thuốc trong khi chờ kết quả nuôi cấy. Tuy nhiên, việc sử dụng bừa bãi các KS phổ rộng cũ và mới đã góp phần đáng kể vào sự gia tăng tình trạng kháng kháng sinh (AMR) – một vấn đề sức khỏe toàn cầu đáng lưu ý.
Những dữ kiện của một nghiên cứu tiền lâm sàng cho thấy: đái tháo đường thai kỳ (ĐTĐTK) có thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng và tử vong ở trẻ sơ sinh nguyên nhân do liên cầu khuẩn nhóm B (GBS). Có nhiều lý do như: thay đổi hệ vi sinh vật âm đạo, giảm đáp ứng miễn dịch và quá trình điều hoà thích nghi của vi khuẩn.
Tiền sản giật là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong mẹ. Bệnh lý tiền sản giật có liên quan đến sự xâm lấn tế bào nuôi nhau thai và sự tái cấu trúc động mạch xoắn tử cung. Với đặc tính kháng viêm, aspirin được giả thuyết rằng có thể cải thiện sự bám nhau giúp ngăn ngừa tiền sản giật. Vì vậy, spirin liều thấp được khuyến cáo sử dụng để dự phòng tiền sản giật trong thai kỳ. Mặt khác, aspirin cũng được chỉ định cho các trường hợp thai giới hạn tăng trưởng, sinh non, thai lưu.