Tiền sản giật: liều thấp Aspirin hàng ngày có thể phòng ngừa kết cục xấu
DS. Huỳnh Thị Hồng Gấm
Khoa Dược - BV Từ Dũ
Theo một tổng quan hệ thống được công bố trực tuyến ngày 08 tháng 4 trong “Annals of Internal Medicine”, Aspirin liều thấp hàng ngày bắt đầu sớm ở quý hai thai kỳ dường như phòng ngừa bệnh suất và tử vong do tiền sản giật ở phụ nữ có nguy cơ cao. Tuy nhiên, tác hại tiềm tàng hiếm gặp hoặc dài hạn có thể không được loại trừ.
Kết cục xấu trên sức khỏe chu sinh liên quan đến tiền sản giật có thể do tăng nguy cơ hạn chế tăng trưởng thai nhi trong tử cung hoặc sinh non. Tiền sản giật chiếm hơn một phần ba số bệnh lý nguy hiểm của bà mẹ và 15% sinh non. Các yếu tố liên quan đến nguy cơ cao bị tiền sản giật bao gồm tiền sử tiền sản giật ở lần mang thai trước đó hoặc bệnh mãn tính bao gồm bệnh tiểu đường, cao huyết áp và bệnh thận.
Cách điều trị hiệu quả tiền sản giật duy nhất là chấm dứt thai kỳ, đặt trẻ sơ sinh vào nguy cơ đáng kể nếu tuổi thai dưới 34 tuần. Do đó phòng ngừa tiền sản giật là cần thiết để cải thiện kết cục.
Các nhà nghiên cứu xem xét lại một cách hệ thống lợi ích và tác hại của aspirin liều thấp dựa trên tìm kiếm của MEDLINE, cơ sở dữ liệu của tóm tắt tổng quan về hiệu quả, PubMed, danh bạ trung tâm thử nghiệm có kiểm soát (tháng 1 năm 2006 - tháng 6 năm 2013). Họ cũng tham khảo ý kiến đánh giá có hệ thống trước đây, đăng ký thử nghiệm lâm sàng và giám sát các nghiên cứu lớn từ tháng 6 năm 2013 đến tháng 2 năm 2014.
Tiêu chuẩn thu nhận là các nghiên cứu bằng tiếng anh có chất lượng hợp lí hoặc tốt. Chúng bao gồm thử nghiệm ngẫu nhiên (RCT) đánh giá những lợi ích của aspirin liều thấp ở những phụ nữ có nguy cơ tiền sản giật cao và RCT hoặc nghiên cứu đoàn hệ lớn về các tác hại của aspirin liều thấp ở phụ nữ có mức độ rủi ro bất kỳ.
Cuối cùng họ đưa vào 23 nghiên cứu, trong đó đã được kiểm tra bởi 2 tác giả về chất lượng nghiên cứu và khai thác dữ liệu. Bao gồm 2 RCT lớn, thực hiện nhiều nơi; 13 RCT nhỏ hơn ở phụ nữ có nguy cơ cao (8 nghiên cứu có chất lượng tốt ); 6 thử nghiệm và 2 nghiên cứu quan sát ở phụ nữ có nguy cơ trung bình để xác định tác hại (7 nghiên cứu có chất lượng tốt).
Sử dụng Aspirin có liên quan đến cải thiện kết cục
Sử dụng aspirin liều thấp hàng ngày sau ba tháng đầu thai kỳ có liên quan với tần suất tiền sản giật thấp hơn 24% và giảm kết cục bất lợi của tiền sản giật, tùy thuộc vào nguy cơ nền. Việc sử dụng thuốc aspirin làm giảm nguy cơ tuyệt đối tiền sản giật là 2% đến 5 % (nguy cơ tương đối [RR ], 0,76, khoảng tin cậy 95% [CI], 0,62-0,95), hạn chế tăng trưởng thai nhi trong tử cung 1% đến 5 % (RR, 0,80; 95% CI, 0,65-0,99), sinh non 2% đến 4 % (RR, 0,86; 95% CI, 0,76-0,98).
Mặc dù tổng quan tài liệu đã không phát hiện bất kỳ tác hại trên sơ sinh hoặc trên mẹ có ý nghĩa, tác hại hiếm gặp có thể không được loại trừ. Theo dõi trẻ đến mười tám tháng từ nghiên cứu lớn nhất được tìm thấy không có hại khi trẻ phát triển, nhưng có rất ít dữ liệu về kết cục lâu dài.
Hạn chế của tổng quan hệ thống này bao gồm các nghiên cứu nhỏ dẫn đến khả năng tiềm ẩn đánh giá quá cao lợi ích và sự thất bại của khoảng thời gian dự đoán để đạt được ý nghĩa thống kê .
Trên cơ sở của những hạn chế này, các tác giả thực hiện đánh giá tổng quan cho rằng việc giảm nguy cơ tương đối gần 10% đối với tiền sản giật , hạn chế tăng trưởng thai nhi trong tử cung và sinh non sẽ là một cách giải thích dè dặt hơn trong các kết quả.
Các tác giả thực hiện đánh giá tổng quan viết "Bắt đầu sớm Aspirin liều thấp hàng ngày vào quý hai thai kỳ đã phòng ngừa kết cục sức khỏe quan trọng trên lâm sàng. Đã xác định là không có hại, nhưng bằng chứng dài hạn bị hạn chế"
Tác giả đề nghị nghiên cứu căn bản hơn để làm rõ tiền sản giật phát sinh từ các yếu tố nguy cơ khác nhau phát triển và đáp ứng với aspirin ra sao.
Tác giả kết luận "Công cụ mạnh mẽ hơn và phù hợp cho sự phân tầng nguy cơ tiền sản giật sẽ hỗ trợ nghiên cứu trong tương lai và thực hành lâm sàng". "Rất ít các thử nghiệm đã được tiến hành ở những phụ nữ Mỹ gốc Phi ở Mỹ , những người có gánh nặng bệnh tật lớn nhất; nghiên cứu lâm sàng tập trung vào quần thể quan trọng này là hết sức cần thiết. Đối với phụ nữ có nguy cơ cao bị tiền sản giật, bằng chứng hiện có cho thấy tác động khiêm tốn nhưng lợi ích quan trọng của liều aspirin thấp hàng ngày để phòng ngừa tình trạng bệnh và hậu quả"
Nguồn:
Laurie Barclay. Preeclampsia: Low-Dose Aspirin May Prevent Poor Outcomes (http://www.medscape.com/viewarticle/823216)
Các loài thuộc chi Candida là một phần của hệ vi sinh vật thường trú trong âm đạo có khoảng 25% ở phụ nữ, do vậy việc phát hiện nấm không đủ để chẩn đoán bệnh. Ước tính có 75% phụ nữ bị nhiễm nấm candida âm đạo ít nhất một lần trong đời. Nồng độ estrogen và tăng sản xuất glycogen ở âm đạo, tình trạng này xảy ra thường gặp và nghiêm trọng hơn trong thai kỳ. Trong thời kỳ mang thai, bệnh có liên quan đến những kết quả bất lợi trong sản khoa như vỡ ối sớm, chuyển dạ sớm, viêm màng ối, nhiễm nấm candida da ở trẻ sơ sinh và nhiễm trùng hậu sản 1. Bệnh viêm âm hộ-âm đạo do nấm candida là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất có triệu chứng gây ngứa và tiết dịch âm đạo. Biểu hiện của bệnh là tình trạng viêm thường gặp ở các loài nấm Candida với các triệu chứng là ngứa và viêm đỏ.
Cách tốt nhất để bảo vệ chống lại bệnh sởi là tiêm vắc xin phòng ngừa sởi, quai bị và rubella (MMR). Trẻ em có thể tiêm vắc xin phòng ngừa sởi, quai bị, rubella và thủy đậu (MMRV) để thay thế. Hầu hết những người được tiêm vắc-xin MMR và MMRV sẽ được bảo vệ suốt đời.
Việc nhai, bẻ, nghiền các loại thuốc viên đôi khi cần thiết trong một số trường hợp. Tuy nhiên, các thuốc có dạng bào chế đặc biệt nếu bị nhai, bẻ, nghiền có thể ảnh hưởng đến tác dụng điều trị và tính an toàn của thuốc. Chẳng hạn như nếu nghiền viên phóng thích chậm hoặc phóng thích kéo dài sẽ gây phóng thích một lượng lớn hoạt chất tại một thời điểm nhất định, gây quá liều thuốc và gây nguy hiểm cho người bệnh. Nghiền viên bao tan trong ruột có thể làm cho thuốc bị bất hoạt ở dạ dày hoặc gây kích ứng cho đường tiêu hóa.
Cúm là một bệnh đường hô hấp cấp tính do vi-rút cúm A hoặc B gây ra, xảy ra thành các đợt bùng phát và dịch bệnh trên toàn thế giới, chủ yếu vào mùa đông. Tỷ lệ mắc bệnh và tử vong liên quan đến cúm cao hơn ở những phụ nữ mang thai và mới sinh (trong vòng hai tuần sau khi sinh hoặc sảy thai) so với dân số nói chung.
Probiotics được định nghĩa là “các vi sinh vật sống, khi được đưa vào cơ thể với số lượng đủ, sẽ mang lại lợi ích cho sức khỏe của vật chủ”. Các chủng vi khuẩn tạo axit lactic là quan trọng nhất trong thực phẩm và dinh dưỡng, chủng thuộc chi Lactobacillus và Bifidobacterium là những probiotic được sử dụng phổ biến nhất, ngoài ra còn kể đến các chi Bacillus, Streptococcus, Enterococcus, Saccharomyces và Escherichia coli
- Bệnh viện đã thực hiện 378 báo cáo ADR, giảm 7,9% so với năm 2023 (408 báo cáo), tăng 14,2% so với năm 2022 (331 báo cáo).
- Số lượng báo cáo ADR ngoại trú là 18 báo cáo, giảm 3,6 lần so với năm 2023 (66 báo cáo).
- Bệnh viện Từ Dũ được Trung tâm DI&ADR quốc gia xếp hạng 8/991 cơ sở khám chữa bệnh có hoạt động theo dõi ADR hiệu quả trong báo cáo tổng kết ADR quốc gia vào tháng 9/2024.